BÁO CÁO TÌNH HÌNH KINH TẾ – XÃ HỘI THÁNG 02 NĂM 2025 TỈNH HẢI DƯƠNG

Ngay sau kỳ nghỉ tết Nguyên đán Ất Tỵ năm 2025, thực hiện chỉ đạo của Chính phủ tại Nghị quyết số 25/NQ-CP ngày 05 tháng 02 năm 2025 của Chính phủ về mục tiêu tăng trưởng các ngành, lĩnh vực và địa phương bảo đảm mục tiêu tăng trưởng cả nước năm 2025 đạt 8% trở lên, chỉ đạo của Ban Thường vụ Tỉnh ủy, UBND tỉnh, ngay trong những tháng đầu năm 2025, các đơn vị, địa phương trong toàn tỉnh đã tập trung triển khai thực hiện khẩn trương, đồng bộ các nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm, tiếp tục thực hiện các nhiệm vụ, giải pháp đã được UBND tỉnh giao tại Kế hoạch số 34/KH-UBND ngày 03 tháng 01 năm 2025 về kịch bản tăng trưởng kinh tế năm 2025 tỉnh Hải Dương.

  1. Sản xuất nông, lâm nghiệp và thuỷ sản

    1.1. Trồng trọt

Nhiệm vụ trọng tâm của sản xuất nông nghiệp tháng 02/2025 là tập trung thu hoạch cây rau vụ đông, làm đất, gieo trồng cây vụ chiêm xuân.

Vụ đông 2025, toàn tỉnh gieo trồng được 22.602 ha, tăng 1,0% (+212 ha) so với năm trước. Diện tích gieo trồng cây vụ đông năm 2025 tăng ở hầu hết các nhóm cây trồng; một số nhóm cây trồng tăng cao như: Cây ngô diện tích gieo trồng là 1.603 ha, tăng 10,9%; cây rau các loại 18.080 ha, tăng 0,9%…

Một số cây chủ lực của tỉnh như hành củ, cà rốt, su hào, bắp cải vụ đông năm 2025 cho năng suất, sản lượng cao hơn so với năm 2024. Hiệu quả sản xuất vụ đông năm nay đạt khá. Ước tính trừ chi phí, thu nhập một sào hành củ giao động từ 8 đến 10 triệu đồng/sào.

Vụ chiêm xuân, ước tính đến hết tháng 02, toàn tỉnh gieo cấy được 53.500 ha lúa chiêm xuân, giảm 0,7% so với cùng kỳ năm trước. Ngoài việc tích cực gieo cấy lúa chiêm xuân đúng cơ cấu, kịp thời vụ, các địa phương đang khẩn trương gieo trồng các loại cây rau, màu vụ xuân như: Cây ngô, lạc, bí xanh, bắp cải, dưa hấu…Diện tích gieo trồng ước đạt trên 6.500 ha rau màu, tăng 1% so với cùng kỳ năm trước.

1.2. Chăn nuôi

Công tác phòng trừ dịch bệnh được quan tâm chú trọng nên dịch bệnh không xuất hiện trên đàn gia súc, gia cầm.

Lợn: Chăn nuôi lợn của các loại hình doanh nghiệp, trang trại, hộ chăn nuôi qui mô lớn cho hiệu quả kinh tế cao, phát triển tốt do chủ động được nguồn cung về con giống và thị trường tiêu thụ sản phẩm đầu ra. Ước tại thời điểm 28/02/2025; tổng đàn lợn (không bao gồm lợn sữa) đạt 362.000 con, tăng 6,5% so với cùng kỳ năm trước; số con lợn thịt xuất chuồng tháng 02 đạt 57.000 con, tăng 6%, sản lượng thịt hơi xuất chuồng đạt 6.000 tấn, tăng 6,5%.

Gia cầm: Tại thời điểm 28/02/2025, đàn gia cầm (gà, vịt, ngan, ngỗng và gia cầm khác) của toàn tỉnh ước đạt 16.100 nghìn con, tăng 5,2% so với cùng kỳ năm trước. Sản lượng thịt gia cầm tháng 02 ước đạt 6.100 tấn, tăng 5,5%, sản lượng trứng gia cầm (bao gồm cả trứng chim cút) ước đạt 53.000 nghìn quả, tăng 4%.  Đàn gia cầm tăng khá là do các hộ chăn nuôi đã làm tốt công tác phòng bệnh, vệ sinh môi trường nên bệnh dịch không xảy ra, đàn gà được duy trì và phát triển tốt. Bên cạnh đó giá bán thịt gà hơi xuất chuồng luôn duy trì ở mức khá cao, hiệu quả kinh tế đạt khá, người chăn nuôi đã đầu tư mở rộng qui mô nuôi.

Trâu, bò: Ước tại thời điểm 28/02/2025 đàn trâu đạt 5.500 con, tăng 1,1%; đàn bò đạt 14.300 con giảm 0,9% so với cùng kỳ năm trước. Sản lượng thịt trâu, bò hơi xuất chuồng tháng 2/2025 đạt 232 tấn, tăng 0,8%.

1.3. Lâm nghiệp

Tháng 02/2025, toàn tỉnh ước đạt 21 ha diện tích rừng trồng mới, giảm 11 ha so với cùng kỳ năm trước; diện tích rừng trồng được chăm sóc ước đạt trên 200 ha, tương đương so với cùng kỳ năm 2024. Diện tích rừng được giao khoán bảo vệ ước đạt gần 3.000 ha, chủ yếu là diện tích rừng phòng hộ và rừng đặc dụng.

Ước tính tháng 02/2025, sản lượng khai thác gỗ từ rừng trồng và cây lâm nghiệp trồng phân tán ước đạt 1.000 m3, tăng 5,3% so với cùng kỳ năm trước; sản lượng khai thác củi ước đạt 5.500 ster, tăng 4%.

1.4. Thuỷ sản

Trong tháng 02 năm 2025, sản xuất thủy sản tỉnh Hải Dương tiếp tục duy trì phát triển ổn định và có mức tăng trưởng khá. Phương thức nuôi thủy sản lồng/bè được duy trì phát triển tốt, các giống cá chủ lực và giống đặc sản cho năng suất và giá trị cao được duy trì và phát triển. Tổng sản lượng thuỷ sản nuôi trồng tháng 2 năm 2025 ước đạt trên 13.000 tấn, tăng 9,5% so với cùng kỳ năm 2024.

Trên địa bàn tỉnh hiện có trên 2.000 ha nuôi thủy sản ứng dụng công nghệ cao, chiếm 16% tổng diện tích mặt nước nuôi trồng thủy sản; trong đó có 600 ha thủy sản nuôi theo hình thức “ao nổi” và “sông trong ao”. Một số mô hình nuôi thủy sản có hệ thống quan trắc đo môi trường tự động, máy cho ăn điều chỉnh tự động có kết nối với điện thoại thông minh cho năng suất cao gấp 2-3 lần so với phương thức nuôi truyền thống.

  1. Sản xuất công nghiệp

Đơn hàng tăng, không khí làm việc sôi nổi, tinh thần lao động hăng say ngay sau kỳ nghỉ Tết dài ngày là những tín hiệu vui trong bức tranh chung của hoạt động sản xuất công nghiệp. Tính chung 2 tháng đầu năm, sản xuất công nghiệp của tỉnh đạt mức tăng trưởng khá. Nhiều sản phẩm chủ lực của tỉnh như thiết bị điện, điện tử, xe có động cơ, sắt thép, may mặc, thức ăn chăn nuôi… đều có mức tăng trưởng trên 2 con số.

2.1. Chỉ số sản xuất công nghiệp

So với tháng trước, chỉ số sản xuất công nghiệp của tỉnh tăng 2,6%, nhiều ngành sản xuất đều có mức tăng trưởng nhẹ, điển hình như ngành sản xuất, chế biến thực phẩm tăng 2,9%; sản xuất trang phục tăng 5,6%; sản xuất sản phẩm từ kim loại đúc sẵn tăng 6,8%; sản xuất điện tử tăng 3,7%; sản xuất xe có động cơ tăng 3,2%…

So với cùng kỳ năm trước, bên cạnh yếu tố “đà tăng trưởng” thì yếu tố chênh lệch số ngày sản xuất thực tế so với cùng kỳ năm trước cũng góp phần làm cho sản xuất công nghiệp tháng 02/2025 tăng cao (tăng 32%), trong đó nhóm ngành công nghiệp chế biến, chế tạo có mức tăng cao nhất với +38,1%; cung cấp nước, quản lý và xử lý nước thải, rác thải tăng 8,3%; sản xuất, phân phối điện giảm 1,6% và khai khoáng giảm 0,9%.

Tính chung 2 tháng đầu năm, sản xuất công nghiệp tăng 13,2% so với cùng kỳ năm trước. Hầu hết các ngành sản xuất quan trọng có tỷ trọng lớn, tác động nhiều đến chỉ số chung đều duy trì được mức tăng trưởng ổn định, một số ngành có mức tăng trưởng cao như:

– Ngành sản xuất các sản phẩm điện tử tăng 19,4%, ngành sản xuất thiết bị điện tăng 47,6%, tác động làm chỉ số chung tăng 6,2 điểm%. Nhu cầu sử dụng các thiết bị điện, điện tử ngày càng gia tăng dẫn tới số lượng đơn hàng xuất khẩu của các doanh nghiệp cũng có sự tăng trưởng mạnh.

– Ngành sản xuất xe có động cơ tăng 12,2%, tác động làm chỉ số chung tăng 3,2 điểm% (trong đó, bộ dây đánh lửa và bộ dây khác sử dụng cho xe có động cơ tăng 8,5%; bộ phận thiết bị điện cho xe có động cơ tăng 9,8%; xe có động cơ chở được từ 05 người trở lên tăng 49,8%).

– Ngành sản xuất, chế biến thực phẩm (trong đó sản phẩm chính là sản xuất thức ăn chăn nuôi) tăng 12,8%, tác động làm chỉ số chung tăng 0,7 điểm%. Nhu cầu về các sản phẩm của ngành chăn nuôi như thịt, trứng ngày càng tăng, trong khi dịch bệnh có xu hướng được kiểm soát tốt dẫn đến ngành chăn nuôi tiếp tục được tái cơ cấu mạnh theo hướng chăn nuôi trang trại, công nghiệp, quy mô lớn, áp dụng công nghệ hiện đại. Triển vọng tích cực này cũng góp phần thúc đẩy nhu cầu về thức ăn chăn nuôi, mở ra cơ hội phát triển cho ngành này.

– Nhóm ngành dệt, may mặc lần lượt tăng 20,7% và 12,1%, tác động làm chỉ số chung tăng 1,0 điểm%. Bên cạnh các thị trường truyền thống như Mỹ, EU, Nhật Bản, Trung Quốc, khối CPTPP, các nước ASEAN… hàng dệt may của tỉnh cũng đã khai thác những thị trường mới như châu Phi, Trung Đông… Một số doanh nghiệp đã đón được luồng đơn hàng dịch chuyển từ Trung Quốc, Bangladesh, Myanmar.

– Ngành sản xuất kim loại tăng 9,1%, làm chỉ số chung tăng 0,5 điểm%. Thị trường trong nước và xuất khẩu có sự phục hồi rõ rệt, các dự án hạ tầng giao thông và căn hộ tại Hà Nội và TP Hồ Chí Minh được triển khai đã góp phần không nhỏ thúc đẩy tăng trưởng của ngành. Bên cạnh đó các doanh nghiệp cũng được hưởng lợi khi các biện pháp bảo hộ được tăng cường giúp giảm bớt áp lực cạnh tranh.

Ở chiều ngược lại một số ngành có chỉ số sản xuất giảm làm ảnh hưởng tới tăng trưởng chung của toàn ngành như: Ngành sản xuất và phân phối điện giảm 8,1%, làm chỉ số chung toàn ngành công nghiệp giảm 0,8 điểm%, trong đó điện sản xuất giảm 10,0%. Do đầu năm nay, mực nước tại các hồ thủy điện phía Bắc vẫn được đảm bảo nên sản 3 lượng điện huy động đối với nhiệt điện giảm so với cùng kỳ năm trước (trái ngược với năm trước, thủy điện thiếu nước nên ngay từ đầu năm nhiệt điện đã được EVN huy động nhiều); Ngành khai khoáng khác giảm 17,6% tác động làm chỉ số chung giảm 0,01 điểm%. Nhiều vùng khai thác đã hết hạn trong khi các mỏ khoáng sản mới chưa được đưa vào vận hành dẫn đến tình trạng thiếu hụt nguyên liệu sản xuất.

2.2. Sử dụng lao động

Ngay sau kỳ nghỉ tết Nguyên Đán Ất Tỵ, tỷ lệ người lao động quay trở lại làm việc cao, các doanh nghiệp nhanh chóng ổn định sản xuất, chuẩn bị cho những đơn hàng mới.

Tình hình sử dụng lao động trong các doanh nghiệp công nghiệp tại thời điểm 28/02/2025 dự ước tăng 0,7% so với tháng trước, tăng 2,9% so với cùng kỳ, tính chung 2 tháng đầu năm tăng 1,5%. Một số ngành có lao động tăng, cụ thể: Sản xuất, chế biến thực phẩm tăng 2,4%; dệt tăng 5,8%; sản xuất da và các sản phẩm có liên quan tăng 0,6%; sản xuất cao su và plastic tăng 4,7%; sản xuất sản phẩm điện tử tăng 2,8%; sản xuất thiết bị điện tăng 2,1%; sản xuất máy móc, thiết bị chưa được phân vào đâu tăng 4,1%; sản xuất xe có động cơ tăng 1,1%; công nghiệp chế biến, chế tạo khác tăng 4,4%…

Các ngành có số lượng lao động tháng 02/2025 giảm so với cùng kỳ năm trước là: Khai khoáng khác giảm 17,5%; sản xuất sản phẩm từ khoáng phi kim loại khác giảm 4,1%; sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hòa không khí giảm 1,3%.

  1. Hoạt động đầu tư

Với tinh thần chủ động, tích cực, các Sở, ngành, UBND các huyện, thành phố, thị xã cùng các nhà thầu thi công trên địa bàn Hải Dương đã triển khai các công việc nhằm đẩy nhanh tiến độ giải ngân vốn đầu tư công ngay từ đầu năm. Tiếp tục quán triệt phương châm phát huy tối đa các mặt tích cực, kết quả đạt được trong những năm qua, khắc phục những hạn chế, bất cập, thực hiện nhanh, hiệu quả, toàn diện nhiệm vụ, giải pháp đẩy mạnh giải ngân vốn đầu tư công năm 2025.

Ước tháng 2, vốn đầu tư thuộc nguồn vốn ngân sách nhà nước do địa phương quản lý đạt 410,7 tỷ đồng, tăng 79,3% so với cùng kỳ năm trước; trong đó, vốn ngân sách nhà nước cấp tỉnh đạt 196,3 tỷ đồng, tăng 54,7%; vốn ngân sách nhà nước cấp huyện đạt 199,2 tỷ đồng, tăng 122,5%; vốn ngân sách cấp xã đạt 15,2 tỷ đồng, tăng 20,2%.

Tính chung 2 tháng đầu năm, tổng vốn đầu tư thuộc nguồn vốn ngân sách nhà nước do địa phương quản lý ước đạt 806,7 tỷ đồng, tăng 57,9% so với cùng kỳ năm trước, đạt 7,7%  kế hoạch; trong đó: vốn ngân sách nhà nước cấp tỉnh ước đạt 399,5 tỷ đồng, chiếm 49,5% tổng vốn đầu tư, tăng 43,4%; vốn ngân sách nhà nước cấp huyện ước đạt 376,6 tỷ đồng, chiếm 46,7% tổng vốn đầu tư, tăng 85,2%; vốn ngân sách nhà nước cấp xã ước đạt 30,6 tỷ đồng, chiếm 3,8% tổng vốn đầu tư, tăng 6,0% so với cùng kỳ năm trước.

Tiến độ giải ngân vốn đầu tư công trên địa bàn tỉnh đạt kết quả cao do sự nỗ lực, quyết tâm, chỉ đạo sát sao của lãnh đạo Tỉnh ủy, UBND tỉnh, các Sở, ngành, địa phương. Đồng thời, cấp ủy, chính quyền các cấp và các đơn vị có nhiều cố gắng để đẩy nhanh tiến độ giải phóng mặt bằng, thực hiện phê duyệt phương án bồi thường; khẩn trương hoàn thiện thủ tục thanh toán, nghiệm thu công trình. Một số công trình, dự án có tổng mức đầu tư lớn đang trong giai đoạn hoàn thiện nên giá trị đạt lớn. Một số dự án thực hiện giải ngân nguồn vốn đền bù giải phóng mặt bằng có giá trị lớn hoàn thành.

* Một số công trình lớn thực hiện trong tháng như:

– Dự án Đầu  tư  xây  dựng  nút  giao  liên  thông  kết nối Quốc lộ 17B với Quốc lộ 5, đường sắt Hà Nội – Hải Phòng, tỉnh Hải Dương (2024-2026 với tổng mức đầu tư 1.867 tỷ đồng), ước thực hiện trong tháng 2/2025 đạt 54,3 tỷ đồng, tổng vốn đầu tư thực hiện từ khi khởi công đến thời điểm hiện tại ước đạt 584,1 tỷ đồng, đạt 31,3% tổng mức đầu tư;

– Dự án Đầu tư xây dựng tuyến đường và cầu Vạn kết nối Quốc lộ 37, thành phố Chí Linh với đường dẫn cầu Triều, thị xã Kinh Môn (2024-2030 với tổng mức đầu tư 1.296,2 tỷ đồng), ước thực hiện trong tháng 2/2025 là 23,3 tỷ đồng, tổng vốn đầu tư thực hiện từ khi khởi công đến thời điểm hiện tại ước đạt 151,2 tỷ đồng, đạt 11,7% tổng mức đầu tư;

– Dự án Cải tạo, mở rộng đường Vũ Công Đán kết nối thành phố Hải Dương với vùng huyện Cẩm giàng, Bình Giang (2022-2026 với tổng mức đầu tư là 1.042 tỷ đồng), ước thực hiện trong tháng 2/2025 đạt 22,4 tỷ đồng; tổng vốn đầu tư thực hiện từ khi khởi công đến thời điểm hiện tại ước đạt 495,5 tỷ đồng, ước đạt 47,6% tổng mức đầu tư;

– Dự án Xây dựng đường trục Đông Tây, huyện KT và nhánh đi nút giao cầu vượt QL5 (2023-2025 với tổng mức đầu tư là 612 tỷ đồng), ước thực hiện trong tháng 2/2025 đạt 15 tỷ đồng; tổng vốn đầu tư thực hiện từ khi khởi công đến thời điểm hiện tại ước đạt 94,2 tỷ đồng, ước đạt 15,4% tổng mức đầu tư;

– Dự án Nâng cấp đường tỉnh 390B và xây dựng mới tuyến đường tránh trung tâm Thị trấn Thanh Hà, huyện Thanh Hà (2024-2026 với tổng mức đầu tư là 720,4 tỷ đồng), ước thực hiện trong tháng 2/2025 đạt 12,5 tỷ đồng, tổng vốn đầu tư từ khi khởi công đến thời điểm hiện tại ước đạt 188,5 tỷ đồng, ước đạt 26,2% tổng mức đầu tư…

  1. Thương mại, giá cả, dịch vụ

Tháng 02, hoạt động thương mại, dịch vụ tiếp tục chuyển biến tích cực duy trì mức tăng trưởng khá, thị trường hàng hóa chủ yếu sôi động với các hoạt động phục vụ các lễ hội sau Tết Nguyên đán. Giá cả hàng hóa, nhất là các mặt hàng thiết yếu khá ổn định, các vật phẩm văn hóa, giáo dục và dịch vụ lưu trú, ăn uống, du lịch lữ hành tiếp tục duy trì xu hướng tăng so với cùng kỳ năm trước.

Tháng 02, tổng mức bán lẻ và doanh thu dịch vụ tiêu dùng ước đạt 9.168 tỷ đồng, tăng 14,2% so với cùng kỳ năm trước. Doanh thu hoạt động vận tải kho bãi ước đạt 1.509 tỷ đồng, tăng 6,1% so với cùng kỳ năm trước.

Tính chung 02 tháng đầu năm, tổng mức bán lẻ và doanh thu dịch vụ tiêu dùng ước đạt 18.820 tỷ đồng, tăng 15,8% so với cùng kỳ năm trước; doanh thu hoạt động vận tải kho bãi ước đạt 2.930 tỷ đồng, tăng 10,2%.

4.1. Bán lẻ hàng hoá

Doanh thu bán lẻ hàng hoá tháng 02 ước đạt 7.500 tỷ đồng, giảm 6,3% so với tháng trước và tăng 17,5% so với cùng kỳ năm trước.

Tính chung 02 tháng, doanh thu bán lẻ hàng hoá ước đạt 15.502 tỷ đồng, tăng 17,5% so với cùng kỳ năm trước. Phân theo mặt hàng: Nhóm lương thực, thực phẩm đạt 5.920 tỷ đồng, tăng 19,5%, là nhóm chiếm tỷ trọng lớn nhất với 38,2%; nhóm đồ dùng, dụng cụ trang thiết bị gia đình đạt 1.819 tỷ đồng, tăng 17,5%; nhóm gỗ và vật liệu xây dựng đạt 1.740 tỷ đồng, tăng 17,7%; xăng, dầu các loại đạt 1.502 tỷ đồng, tăng 18,9%.

4.2. Doanh thu dịch vụ tiêu dùng

Doanh thu dịch vụ tiêu dùng xã hội tháng 02 ước đạt 1.668 tỷ đồng, tăng 1,1% so với tháng trước và tăng 13,7% so với cùng kỳ.

Doanh thu dịch vụ tiêu dùng xã hội 02 tháng đầu năm ước đạt 3.318 tỷ đồng, tăng 8,8% so với cùng kỳ năm trước. Phân theo ngành kinh tế, dịch vụ lưu trú đạt 54 tỷ đồng, tăng 3,3% so với cùng kỳ năm trước; dịch vụ ăn uống đạt 1.270 tỷ đồng, tăng 11,9%; dịch vụ khác đạt 1.967 tỷ đồng, tăng 7,0% so với cùng kỳ năm trước.

4.3. Vận tải

Tháng 02, doanh thu vận tải, kho bãi và hỗ trợ vận tải ước đạt đạt 1.509 tỷ đồng, tăng 15,2% so với cùng kỳ năm trước; trong đó, doanh thu vận tải hành khách tăng 10,9%; doanh thu vận tải hàng hoá tăng 15,3%.

Tính chung 02 tháng đầu năm, doanh thu vận tải, kho bãi và hỗ trợ vận tải ước đạt 2.930 tỷ đồng, tăng 10,2% so với cùng kỳ năm trước; trong đó:

– Doanh thu vận tải hành khách đạt 436 tỷ đồng, tăng 10,8%;

– Doanh thu vận tải hàng hoá đạt 1.707 tỷ đồng, tăng 6,9%;

– Doanh thu kho bãi và dịch vụ hỗ trợ vận tải đạt 750 tỷ đồng, tăng 17,2%;

– Doanh thu dịch vụ bưu chính và chuyển phát đạt 36 tỷ đồng, tăng 25,1%.

4.4. Xuất, nhập khẩu hàng hoá

Giá trị hàng hóa xuất khẩu tháng 02 ước đạt 628 triệu USD, tăng 9,8% so với tháng 02 năm trước; tính chung 02 tháng đầu năm xuất khẩu ước đạt 1.395 triệu USD, tăng 1,0% so với cùng kỳ năm trước. Dù giá trị hàng hoá xuất khẩu tăng không cao, nhưng đây vẫn là tín hiệu rất tích cực vì hầu hết các tháng năm trước xuất khẩu đều giảm.

Giá trị hàng hoá nhập khẩu tháng 02 ước đạt 516 triệu USD, tăng 10,7% so với tháng 02 năm trước; tính chung 02 tháng đầu năm nhập khẩu ước đạt 1.106 triệu USD tăng 1,1% so với cùng kỳ năm trước.

  1. Giá tiêu dùng

Theo phương pháp chỉ số, giá tiêu dùng (CPI) tháng 02 tăng 0,08% (khu vực thành thị giảm 0,01%; khu vực nông thôn tăng 0,13%) so với tháng trước; bình quân tăng 5,20% so với cùng kỳ năm trước. So với tháng trước, có 06 nhóm hàng hóa và dịch vụ tăng giá và 04 nhóm giảm giá, riêng nhóm giáo dục giữ giá ổn định.

Một số nhóm mặt hàng tăng nhiều, tác động lớn đến CPI chung như sau:

– Nhóm giao thông tăng 0,37%, tác động làm cho CPI chung tăng 0,04 điểm phần trăm; trong đó, nhiên liệu xăng, dầu tăng 0,55%, tác động làm cho CPI chung tăng 0,02 điểm phần trăm; dịch vụ giao thông công cộng tăng 3,35%, tác động làm cho CPI chung tăng 0,01 điểm phần trăm.

– Nhóm nhà ở, điện, nước, chất đốt và vật liệu xây dựng tăng 0,31%, tác động làm cho CPI chung tăng 0,06 điểm phần trăm, trong đó giá điện sinh hoạt tăng 1,80% tác động làm cho CPI chung tăng 0,06 điểm phần trăm; giá vật liệu xây dựng tăng 0,11%.

– Nhóm văn hóa, giải trí và du lịch tăng 0,14%, tác động làm cho CPI chung tăng 0,01 điểm phần trăm, trong đó, du lịch chọn gói tăng 1,04%; thiết bị văn hóa tăng 0,19%.

Ở chiều ngược lại, một số mặt hàng trong tháng có giá giảm nhẹ so với tháng trước như: (1) Nhóm đồ uống và thuôc lá giảm 0,14%; (2) Nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống giảm 0,09%; (3) Nhóm thiết bị và đồ dùng gia đình giảm 0,02%.

Giá vàng tháng 02 tăng theo giá vàng thế giới, chỉ số giá vàng tăng 4,13% so tháng trước; tăng 38,59% so với cùng kỳ năm 2024. Tính đến ngày 24/02/2025, bình quân giá vàng là 8.921 ngàn đồng/1 chỉ, tăng 354 ngàn đồng/1 chỉ so với tháng trước. Hiện nay, giá vàng có giá phổ biến ở mức từ 8.896 – 8.946 ngàn đồng/chỉ.

Chỉ số giá Đô la Mỹ tháng 02 tăng 0,05% so với tháng trước; tăng 4,20% so với cùng kỳ năm 2024; Giá bình quân của Đô la Mỹ loại tờ (50 – 100 USD) tháng 01 là 2.566.705 đồng/100USD, tăng 1.283 đồng/100USD so với tháng trước. Hiện nay, giá Đô la Mỹ trên thị trường Hải Dương đang có mức giá giao động từ 2.566.680 – 2.566.730 đồng/100USD.

  1. Thu, Chi ngân sách nhà nước

Tổng thu ngân sách nhà nước trên địa bàn tính đến hết ngày 15/02 đạt 5.612 tỷ đồng; nâng tổng thu ngân sách nhà nước từ đầu năm đến 28/02 ước đạt 5.788 tỷ đồng, bằng 21,0% dự toán năm, tăng 12,3% so với cùng kỳ năm trước; trong đó, thu nội địa ước đạt 5.215 tỷ đồng, thu qua Hải quan đạt 571 tỷ đồng.

Tổng chi ngân sách nhà nước tính đến hết ngày 15/02 đạt 6.264 tỷ đồng; nâng tổng chi ngân sách nhà nước ước đến ngày 28/02 đạt 8.371 tỷ đồng, bằng 190,2% so với cùng kỳ; trong đó, chi đầu tư phát triển đạt 5.616 tỷ đồng, chi thường xuyên đạt 2.753 tỷ đồng./.

Download báo cáo