BÁO CÁO TÌNH HÌNH KINH TẾ – XÃ HỘI THÁNG 5 NĂM 2025 TỈNH HẢI DƯƠNG

Tình hình kinh tế tháng 5 và 5 tháng đầu năm vẫn duy trì mức tăng khá: thời tiết thuận lợi cho cây trồng phát triển, dịch bệnh trên đàn gia súc gia cầm không phát sinh; tình hình sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh nhìn chung tương đối ổn định. Nhiều doanh nghiệp vẫn tích cực ưu tiên hoàn thành các đơn hàng xuất khẩu sang Mỹ trước tháng 7 nên sản lượng sản xuất tháng 5 vẫn có xu hướng tăng; hoạt động thương mại, dịch vụ phát triển tốt, nguồn cung hàng hóa dồi dào.

  1. Sản xuất nông, lâm nghiệp và thuỷ sản

1.1. Trồng trọt

– Cây hàng năm:

Tổng diện tích gieo trồng vụ Chiêm xuân năm 2025 toàn tỉnh đạt 63.646 ha, giảm 0,58% (tương ứng -370 ha) so với vụ Chiêm xuân năm 2024; trong đó, cây lương thực có hạt đạt 54.326 ha, chiếm 85,66% tổng diện tích gieo trồng, giảm 1,05% (-575 ha) so với cùng kỳ, trong đó, diện tích lúa Chiêm đạt 53.261 ha, giảm 1,2%; cây rau, đậu, hoa các loại đạt 7.171 ha, chiếm 11,27% tổng diện tích gieo trồng, tăng 1,89% (+133 ha) so với cùng kỳ; các cây còn lại chiếm tỷ lệ nhỏ, không đáng kể.

Năng suất lúa vụ Chiêm xuân năm 2025 ước đạt 67,5 tạ/ha, tăng 0,1% (+0,07 tạ/ha) so với cùng kỳ năm 2024; sản lượng ước đạt 359.512 tấn, giảm 1,1% (-3.994 tấn) so với cùng kỳ. Năng suất rau các loại ước đạt 271,5 tạ/ha, tăng 0,32% (+0,87 tạ/ha); sản lượng ước đạt 185.923 tấn, tăng 2,0% (+3.651 tấn) so với cùng kỳ năm 2024.

Diễn biến thời tiết vụ Chiêm xuân năm nay cơ bản thuận lợi. Tháng 5 có các đợt mưa rào, xen kẽ nắng mưa, độ ẩm không khí cao, tạo điều kiện thuận lợi cho cây trồng sinh trưởng, phát triển. Dự báo vụ Chiêm xuân năm 2025 sẽ là một năm có năng suất, sản lượng cao đối với cây lúa và một số loại cây trồng khác.

  • Cây lâu năm:

Tổng diện tích trồng cây lâu năm toàn tỉnh 6 tháng đầu năm 2025 ước đạt 22.768 ha, tăng 0,1% (+33 ha) so với cùng kỳ năm 2024. Trong tổng diện tích trồng cây lâu năm, Cây ăn quả là cây trồng chiếm tỷ trọng lớn nhất trong diện tích trồng cây lâu năm của tỉnh (chiếm 95,7%), tăng 34 ha so với cùng kỳ năm 2024. Một số diện tích cây lâu năm già cỗi hiệu quả kinh tế đạt thấp như: vải đã bị phá bỏ, một phần diện tích đã được trồng thay thế bằng những cây trồng khác cho hiệu quả kinh tế cao hơn như: ổi, na, xoài, đu đủ, hồng xiêm, mít,…

Ước tính 6 tháng đầu năm 2025, sản lượng một số cây ăn quả chính của tỉnh đều giảm hơn so với cùng kỳ năm 2024 như: sản lượng chuối ước đạt 37.500 tấn, giảm 2,6%; sản lượng ổi ước đạt 43.150 tấn, giảm 1,9% so với cùng kỳ và cây ăn quả khác nhìn chung đều cho sản lượng thấp hơn so với cùng kỳ. Sản lượng vải ước đạt 55.000 tấn, so với năm 2024 tăng 54,1% (+ 19.320 tấn). Năm 2025, diễn biến thời tiết ở giai đoạn cây vải phân hóa mầm hoa và ra hoa thuận lợi nên tỷ lệ ra hoa, đậu quả cao hơn so với năm 2024.

1.2. Chăn nuôi

Trâu, bò: Tại thời điểm 01/6/2025, đàn trâu ước đạt 5.450 con, tăng 0,37% so với cùng kỳ năm 2024; sản lượng thịt trâu hơi xuất chuồng tháng 5 ước đạt 79 tấn, tăng 2,6% so với cùng kỳ. Tổng đàn bò toàn tỉnh ước đạt 14.320 con, giảm 1,24% so với cùng kỳ; sản lượng thịt bò hơi xuất chuồng tháng 5 ước đạt 155 tấn, tăng 1,3% so với cùng kỳ.

Lợn: Chăn nuôi lợn phát triển tốt nhờ làm tốt công tác phòng, chống dịch bệnh, dịch bệnh. chăn nuôi lợn của các loại hình doanh nghiệp, trang trại, hộ chăn nuôi qui mô lớn phát triển mạnh. Tổng đàn lợn thịt tại thời điểm 01/6/2025 ước đạt 323.100 con, tăng 7,1% so với cùng kỳ năm 2024; sản lượng thịt hơi xuất chuồng tháng 5 ước đạt 6.550 tấn, tăng 7,0% so với cùng kỳ.

Gia cầm: Trong tháng 5, do làm tốt công tác phòng, chống dịch bệnh nên đàn gia cầm duy trì ổn định và tăng khá so với cùng kỳ năm 2024. Tổng đàn gia cầm toàn tỉnh tại thời điểm 01/6/2025 ước đạt 17.700 nghìn con, tăng 5,67% so với cùng kỳ năm 2024; trong đó, đàn gà ước đạt 13.025 nghìn con, tăng 5,76% so với cùng kỳ. Đàn gà được duy trì, phát triển tốt nhờ các hộ chăn nuôi thực hiện tốt công tác phòng bệnh, vệ sinh môi trường, nên không xảy ra dịch bệnh. Sản lượng thịt gia cầm hơi xuất chuồng tháng 5 ước đạt 6.700 tấn, tăng 5,64% so với cùng kỳ năm 2024.

1.3. Lâm nghiệp

Tính đến hết tháng 5, toàn tỉnh đã trồng được 360.000 cây lâm nghiệp phân tán. Các huyện có số lượng cây trồng nhiều gồm: thành phố Chí Linh, huyện Thanh Hà, thị xã Kinh Môn. Cây lâm nghiệp phân tán chủ yếu được trồng vào dịp đầu xuân, tập trung ở các khu đô thị mới, công viên, công sở, trường học, các khu di tích, danh lam thắng cảnh, quanh bãi rác, ven đường làng, đường trục ngoài cánh đồng và tại các trang trại. Các giống cây trồng chủ yếu gồm: sấu, bạch đàn, keo, long não, …Sản lượng khai thác gỗ trong tháng 5 ước đạt 1.400 m³, tăng 20,69% so với cùng kỳ năm 2024.

1.4. Thuỷ sản

Trong tháng 5, sản xuất thủy sản trên địa bàn tỉnh cơ bản ổn định. Công tác vệ sinh, phòng chống dịch bệnh được quan tâm thực hiện thường xuyên, nên dịch bệnh phát sinh ở mức độ nhẹ hơn so với cùng kỳ năm 2024. Chủng loại và chất lượng giống thủy sản nuôi trồng ngày càng phong phú, phù hợp với điều kiện đặc thù của mặt nước nuôi trên địa bàn tỉnh.

Diện tích thủy sản đang nuôi ước đạt 12.580 ha, tăng 0,6% so với cùng kỳ năm 2024. Các mô hình nuôi cá siêu thâm canh với năng suất và hiệu quả kinh tế cao tiếp tục được mở rộng tại các địa phương. Giá bán sản phẩm đầu ra có xu hướng tăng, người dân mạnh dạn đầu tư trang thiết bị hiện đại để nuôi cá mật độ cao. Sản lượng thủy sản nuôi trồng tháng 5 ước đạt 7.297 tấn, tăng 6,53% so với cùng kỳ năm 2024.

  1. Sản xuất công nghiệp

Trong tháng 5/2025, tình hình sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh duy trì ổn định và đạt được những kết quả tích cực. Các sở, ngành, địa phương trong tỉnh đã chủ động bám sát chỉ đạo của Trung ương, Tỉnh ủy và UBND tỉnh; vừa tập trung triển khai nhiệm vụ sắp xếp các đơn vị hành chính; vừa tổ chức thực hiện đồng bộ, hiệu quả các giải pháp phát triển kinh tế – xã hội. Nhờ đó hoạt động sản xuất công nghiệp trên địa bàn tỉnh vẫn duy trì đà tăng trưởng.

2.1. Chỉ số sản xuất công nghiệp

Sản xuất công nghiệp tỉnh Hải Dương tháng 5 tăng 1,7% so với tháng trước và tăng 15,3% so với cùng kỳ năm trước. Một số sản phẩm có lượng sản xuất tăng so với cùng kỳ năm trước như: Thức ăn gia súc tăng 16,7%; quần áo người lớn tăng 34,2%; giày dép thể thao tăng 20,9%; các sản phẩm bằng plastis tăng 14,3%; đinh, vít, then, đai ốc, neo, móc…bằng kim loại tăng 15,3%; mạch điện tử tích hợp tăng 29,2%; máy kết hợp từ 2 chức năng trở lên: in, quét, coppy… tăng 16,2%; máy phát điện tăng 37,1%; máy văn phòng khác tăng 20,3%; máy khâu công nghiệp tăng 33,3%; xe ô tô từ 5 chỗ trở lên tăng 29,9%; bộ dây điện cho xe có động cơ tăng 11,0%; đồ chơi hình con vật, sinh vật tăng 35,4%…

Tính chung 5 tháng đầu năm, sản xuất công nghiệp dự ước tăng 13,9% so với cùng kỳ năm 2024. Nhờ dư địa tăng trưởng trong những tháng đầu năm đã tạo đà cho sản xuất công nghiệp 5 tháng đầu năm tiếp tục tăng trưởng, trong đó công nghiệp chế biến, chế tạo tiếp tục giữ vai trò dẫn dắt tăng trưởng chung của toàn ngành công nghiệp. Một số ngành có qui mô lớn, tốc độ tăng trưởng cao tác động nhiều đến mức tăng trưởng chung toàn ngành như sau:

– Ngành sản xuất các sản phẩm điện tử tăng 21,5%, ngành sản xuất thiết bị điện tăng 39,2%, đóng góp 6,1 điểm% vào mức tăng trưởng chung; trong đó, các sản phẩm có sản lượng sản xuất tăng cao như mạch điện tử tích hợp tăng 30,0%; bộ phận của các linh kiện điện tử tăng 10,5%; máy kết hợp từ hai chức năng trở lên: in, fax, coppy… tăng 26,1%; máy phát điện tăng 60,1%; cáp đồng trục và dây dẫn điện đồng trục tăng 32,9%. Sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ và nhu cầu ngày càng cao đối với các sản phẩm công nghệ đã tạo ra cơ hội lớn cho các doanh nghiệp sản xuất các sản phẩm điện, điện tử. Đây là một trong những mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Hải Dương. Bên cạnh đó, với kỳ vọng nhu cầu thị trường tiếp tục tăng trưởng, nhiều doanh nghiệp trong ngành đã đầu tư vào công nghệ, mở rộng sản xuất.

– Ngành sản xuất xe có động cơ tăng 15,4%, đóng góp 3,0 điểm% vào mức tăng trưởng chung; trong đó, xe có động cơ chở được từ 05 người trở lên tăng 26,8%; bộ dây điện cho xe có động cơ tăng 11,0%. Nhu cầu về phương tiện đi lại của người dân tăng lên, cùng với đó là các chương trình ưu đãi, khuyến mại, lãi suất vay vốn thấp đã làm tăng nhu cầu đối với các sản phẩm trong ngành.

– Ngành sản xuất, chế biến thực phẩm tăng 13,8%, đóng góp 0,8 điểm% vào mức tăng trưởng chung (trong đó sản phẩm chính là sản xuất thức ăn chăn nuôi tăng 14,6%). Giá cả nguyên liệu đầu vào như ngô, đậu tương… ổn định trong khi tiêu thụ đầu ra được đảm bảo đã tạo điều kiện thuận lợi cho ngành này phát triển.

– Nhóm ngành dệt, may mặc, giày dép lần lượt tăng 12,5%; 16,7% và 20,5%, đóng góp 1,5 điểm% vào mức tăng trưởng chung. Nhờ việc tận dụng các lợi thế mà các FTA mang lại, bên cạnh các thị trường truyền thống hàng dệt may, da giày của tỉnh cũng đã khai thác những thị trường mới như châu Phi, Trung Đông… Một số doanh nghiệp đã đón được luồng đơn hàng dịch chuyển từ Trung Quốc, Bangladesh, Myanmar nên nhiều DN đã có đơn hàng ổn định đến hết quý II/2025.

Bên cạnh đó, một số ngành gặp khó khăn do nhu cầu thị trường phục hồi chậm, sản lượng sản xuất so với cùng kỳ giảm, tác động xấu đến tốc độ tăng trưởng chung của toàn ngành đó là:

– Ngành sản xuất và phân phối điện giảm 8,7%, làm tăng trưởng chung toàn ngành công nghiệp giảm 0,9 điểm%, trong đó điện sản xuất giảm 10,5%. Do ảnh hưởng của hiện tượng El Nino nên sản lượng điện huy động của EVN đối với các doanh nghiệp nhiệt điện trên địa bàn tỉnh trong quý I khá thấp, nên mặc dù trong các tháng của quý 2, tháng cao điểm của mùa nắng nóng, nhiệt điện có khả năng được huy động nhiều hơn nhưng sản lượng sẽ không quá cao, không thể bù đắp được sản lượng điện giảm trong quý I

– Ngành khai khoáng giảm 9,3% tác động làm chỉ số chung giảm 0,01 điểm%. Nhiều vùng khai thác đã hết hạn trong khi các mỏ khoáng sản mới chưa được đưa vào vận hành dẫn đến tình trạng thiếu hụt nguyên liệu sản xuất.

2.2. Chỉ số s dụng lao động

Tình hình sử dụng lao động trong các doanh nghiệp công nghiệp tại thời điểm 31/5/2025 dự ước tăng 0,6% so với tháng trước và tăng 2,9% so với cùng kỳ năm 2024.

Tính chung 5 tháng đầu năm 2025, lao động trong ngành tăng 1,5% so với cùng kỳ; trong đó, một số ngành sử dụng nhiều lao động như may mặc, giày dép, điện tử, ô tô và bộ phận phụ trợ đều có số lượng lao động tăng; cụ thể: Sản xuất, chế biến thực phẩm tăng 2,7%; sản xuất đồ uống tăng 3,8%; dệt tăng 5,2%; sản xuất trang phục tăng 1,1%; sản xuất da và các sản phẩm có liên quan tăng 1,2%; sản xuất cao su và plastic tăng 3,9%; sản xuất sản phẩm từ kim loại đúc sẵn, trừ máy móc, thiết bị tăng 5,5%; sản xuất sản phẩm điện tử tăng 1,0%; sản xuất thiết bị điện tăng 3,2%; sản xuất máy móc thiết bị chưa được phân vào đâu tăng 3,1%; sản xuất xe có động cơ tăng 0,3%; công nghiệp chế biến, chế tạo khác tăng 4,0%…

Các ngành có số lượng lao động 5 tháng đầu năm giảm so với cùng kỳ năm trước là: Khai khoáng khác giảm 9,7%; sản xuất sản phẩm từ khoáng phi kim loại khác giảm 4,9%; sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước… giảm 1,1%.

  1. Hoạt động đầu tư

Tỉnh Hải Dương đã và đang triển khai nhiều giải pháp đồng bộ nhằm đẩy nhanh tiến độ đầu tư công trong năm 2025. Nhờ đột phá trong chỉ đạo thực hiện dự án giải ngân vốn đầu tư công với việc xây dựng kịch bản giải ngân chi tiết theo từng tháng, từng quý tình hình thực hiện vốn đầu tư công trên địa bàn tỉnh đạt kết quả khả quan.

Ước tháng 5, vốn đầu tư thuộc nguồn vốn ngân sách nhà nước do địa phương quản lý đạt 806,5 tỷ đồng, tăng 129,5% so với cùng kỳ năm trước; trong đó, vốn ngân sách nhà nước cấp tỉnh đạt 555,2 tỷ đồng, tăng 139,6%; vốn ngân sách nhà nước cấp huyện đạt 230,6 tỷ đồng, tăng 125,0%; vốn ngân sách cấp xã đạt 20,6 tỷ đồng, tăng 20,5%.

Tính chung 5 tháng đầu năm, tổng vốn đầu tư thuộc nguồn vốn ngân sách nhà nước do địa phương quản lý ước đạt 2.804,2 tỷ đồng, tăng 94,5% so với cùng kỳ năm trước, đạt 26,8% kế hoạch năm; trong đó: vốn ngân sách nhà nước cấp tỉnh ước đạt 1.710,2 tỷ đồng, chiếm 61% tổng vốn đầu tư, tăng 98,9%; vốn ngân sách nhà nước cấp huyện ước đạt 1.008,8 tỷ đồng, chiếm 36% tổng vốn đầu tư, tăng 98,2%; vốn ngân sách nhà nước cấp xã ước đạt 85,2 tỷ đồng, chiếm 3% tổng vốn đầu tư, tăng 16,4% so với cùng kỳ năm trước.

* Một số công trình có vốn đầu tư thực hiện đạt cao trong tháng như:

– Dự án Đầu  tư  xây  dựng  nút  giao  liên  thông  kết nối Quốc lộ 17B với Quốc lộ 5, đường sắt Hà Nội – Hải Phòng, tỉnh Hải Dương (2024-2026 với tổng mức đầu tư 1.867 tỷ đồng), ước thực hiện trong tháng 5/2025 đạt 96,7 tỷ đồng, tổng vốn đầu tư thực hiện từ khi khởi công đến thời điểm hiện tại ước đạt 902,1 tỷ đồng, đạt 48,3% tổng mức đầu tư;

– Dự án Cải tạo, nâng cấp đường 395 (đoạn từ km16+750+km23+920) và đường dẫn đầu cầu cậy, đường tránh qua KDC xã Long Xuyên (2023-2025 với tổng mức đầu tư 817,1 tỷ đồng), ước thực hiện trong tháng 5/2025 đạt 84,2 tỷ đồng, tổng vốn đầu tư thực hiện từ khi khởi công đến thời điểm hiện tại ước đạt 771,6 tỷ đồng, đạt 94,4% tổng mức đầu tư;

– Dự án Đầu tư xây dựng tuyến đường và cầu Vạn kết nối Quốc lộ 37, thành phố Chí Linh với đường dẫn cầu Triều, thị xã Kinh Môn (2024-2030 với tổng mức đầu tư 1.296,2 tỷ đồng), ước thực hiện trong tháng 5/2025 đạt 83,9 tỷ đồng, tổng vốn đầu tư thực hiện từ khi khởi công đến thời điểm hiện tại ước đạt 484,4 tỷ đồng, đạt 37,4% tổng mức đầu tư.

– Dự án Dự án xây dựng Cầu vượt Kinh môn và đường dẫn nối nút giao lập thể với Quốc lộ 5 (2023-2025 với tổng mức đầu tư 600 tỷ đồng), ước thực hiện trong tháng 5/2025 đạt 45,1 tỷ đồng, tổng vốn đầu tư thực hiện từ khi khởi công đến thời điểm hiện tại ước đạt 343,8 tỷ đồng, đạt 57,3% tổng mức đầu tư;

– Dự án Xây  dựng  Trung  tâm  Bảo  trợ  xã  hội  tỉnh (2024-2025 với tổng mức đầu tư 379,3 tỷ đồng), ước thực hiện trong tháng 5/2025 đạt 41 tỷ đồng, tổng vốn đầu tư thực hiện từ khi khởi công đến thời điểm hiện tại ước đạt 192,7 tỷ đồng, đạt 50,8% tổng mức đầu tư;

– Dự án Tu bổ, nạo vét kênh dẫn nước tưới tiêu và cải tạo, nâng cấp 1 số trạm bơm trên địa bản tỉnh HD giai đoạn 2021-2025 (2023-2025 với tổng mức đầu tư 167,7 tỷ đồng), ước thực hiện trong tháng 5/2025 đạt 40,6 tỷ đồng, tổng vốn đầu tư thực hiện từ khi khởi công đến thời điểm hiện tại ước đạt 92,6 tỷ đồng, đạt 55,2% tổng mức đầu tư…

  1. Thương mại, giá cả, dịch vụ

Tháng 5, hoạt động thương mại vẫn duy trì mức tăng trưởng khá, thị trường hàng hóa tương đối ổn định, không có biến động bất thường. Thị trường các mặt hàng thiết yếu không có biến động lớn về cung cầu, sức mua tiêu dùng tăng nhẹ, lượng cung hàng hóa trên thị trường dồi dào, đáp ứng nhu cầu, tiêu dùng của người dân và cho sản xuất. Thời gian gần đây, giá xăng dầu có tăng nhẹ nhưng không ảnh hưởng nhiều đến giá các loại hàng hóa, nguyên vật liệu sản xuất, nên tình hình sản xuất kinh doanh và sức mua trong dân cư vẫn cơ bản ổn định và có phần tăng nhẹ.

Tháng 5, tổng mức bán lẻ và doanh thu dịch vụ tiêu dùng ước đạt 9.265 tỷ đồng, tăng 11,6% so với cùng kỳ năm trước. Doanh thu hoạt động vận tải kho bãi ước đạt 1.513 tỷ đồng, tăng 13,9% so với cùng kỳ năm trước.

Tính chung 5 tháng đầu năm, tổng mức bán lẻ và doanh thu dịch vụ tiêu dùng ước đạt 46.186 tỷ đồng, tăng 15,5% so với cùng kỳ năm trước; doanh thu hoạt động vận tải kho bãi ước đạt 7.526 tỷ đồng, tăng 13,6%.

4.1. Bán lẻ hàng hoá

Doanh thu bán lẻ hàng hoá tháng 5 ước đạt 7.576 tỷ đồng, tăng 1,1% so với tháng trước và tăng 14,5% so với cùng kỳ năm trước.

Tính chung 5 tháng, doanh thu bán lẻ hàng hoá ước đạt 38.207 tỷ đồng, tăng 16,5% so với cùng kỳ năm trước. Phân theo mặt hàng: Nhóm lương thực, thực phẩm đạt 14.399 tỷ đồng, tăng 18,7%, là nhóm chiếm tỷ trọng lớn nhất với 37,7%; nhóm đồ dùng, dụng cụ trang thiết bị gia đình đạt 4.453 tỷ đồng, tăng 15,0%; nhóm gỗ và vật liệu xây dựng đạt 4.401 tỷ đồng, tăng 18,1%; xăng, dầu các loại đạt 3.661 tỷ đồng, tăng 15,0%.

4.2. Doanh thu dịch vụ tiêu dùng

Doanh thu dịch vụ tiêu dùng xã hội tháng 5 ước đạt 1.688 tỷ đồng, tăng 0,1% so với tháng trước và tăng 12,5% so với cùng kỳ.

Doanh thu dịch vụ tiêu dùng xã hội 5 tháng ước đạt 7.979 tỷ đồng, tăng 10,9% so với cùng kỳ năm trước. Phân theo ngành kinh tế, dịch vụ lưu trú đạt 141 tỷ đồng, tăng 12,2% so với cùng kỳ năm trước; dịch vụ ăn uống đạt 3.088 tỷ đồng, tăng 12,6%; dịch vụ khác đạt 4.675 tỷ đồng, tăng 9,7% so với cùng kỳ năm trước.

4.3. Vận tải

Tháng 5, doanh thu vận tải, kho bãi và hỗ trợ vận tải ước đạt đạt 1.513 tỷ đồng, tăng 13,9% so với cùng kỳ năm trước; trong đó, doanh thu vận tải hành khách tăng 11,5%; doanh thu vận tải hàng hoá tăng 10,2%.

Tính chung 5 tháng đầu năm, doanh thu vận tải, kho bãi và hỗ trợ vận tải ước đạt 7.526 tỷ đồng, tăng 13,6% so với cùng kỳ năm trước; trong đó: vận tải hành khách tăng 11,7%; vận tải hàng hoá tăng 11,2%.

Hoạt động kinh doanh vận tải khá ổn định và có mức tăng trưởng khá so với cùng kỳ. Giá xăng, dầu có xu hướng giảm so với cùng kỳ năm trước đã góp phần kiểm soát lạm phát, hỗ trợ hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp, góp phần tăng biên độ lợi nhuận cho đơn vị hoạt động vận tải. Bên cạnh đó, các ngành kinh tế thuộc lĩnh vực công nghiệp, xây dựng, thương mại dịch vụ có tốc độ tăng trưởng khá có tác động không nhỏ đến hoạt động vận tải.

4.4. Xuất, nhập khẩu hàng hoá

Giá trị hàng hóa xuất khẩu tháng 5 ước đạt 979,6 triệu USD, tăng 15,7% so với tháng 5 năm trước; tính chung 5 tháng đầu năm xuất khẩu ước đạt 4.322,1 triệu USD, tăng 12,4% so với cùng kỳ năm trước. Dù giá trị hàng hoá xuất khẩu tăng thấp hơn mức tăng chung của cả nước, nhưng đây vẫn là mức tăng cao nhất trong những năm gần đây.

Giá trị hàng hoá nhập khẩu tháng 5 ước đạt 875,3 triệu USD, tăng 17,4% so với tháng 5 năm trước; tính chung 5 tháng đầu năm nhập khẩu ước đạt 3.832,1 triệu USD tăng 19,6% so với cùng kỳ năm trước.

  1. Chỉ số giá tiêu dùng

Theo phương pháp chỉ số, giá tiêu dùng (CPI) tháng 5 giảm 0,16% (khu vực thành thị tăng 0,19%; khu vực nông thôn giảm 0,14%) so với tháng trước; bình quân tăng 4,85% so với cùng kỳ năm trước. So với tháng trước, có 05 nhóm hàng hóa và dịch vụ tăng giá và 05 nhóm giảm giá, riêng nhóm giáo dục giữ giá ổn định.

Trong 05 nhóm hàng giảm giá, nhóm có mức giá giảm nhiều nhất là nhóm giao thông, giảm 0,54%, giảm chủ yếu ở nhóm hàng xăng, giảm 1,25%, dầu diezen giảm 2,23%; nhóm Hàng ăn và dịch vụ ăn uống giảm 0,32%; nhóm May mặc, mũ nón giầy dép và nhóm Nhà ở, điện, nước, chất đốt và VLXD đều có mức giảm nhẹ, giảm 0,10%; nhóm có chỉ số giá giảm ít nhất là nhóm Bưu chính viễn thông, giảm 0,06%.

05 nhóm hàng cơ mức giá tăng, với mức tăng nhẹ như: Thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 0,10%, tăng chủ yếu ở nhóm thiết bị gia đình như: Máy điều hòa nhiệt độ và quạt tích điện do chuẩn bị tháng hè nhu cầu sắm tăng nhẹ; văn hóa, giải trí và du lịch tăng 0,10%, tăng chủ yếu ở những mặt hàng thể thao phục vụ chăm sóc sức khỏe; Thuốc và dịch vụ y tế tăng 0,05%, tăng chủ yếu ở những mặt hàng thuốc do ảnh hưởng thời tiết thất thường và tăng thấp nhất là nhóm hàng hóa khác coi như ổn định, tăng có 0,02% so với tháng trước.

  Giá vàng tháng 5 tăng cao do ảnh hưởng của giá vàng thế giới tăng. Chỉ số giá Vàng tháng này là 112,23%, tăng 12,23% so tháng trước; so với tháng 12 năm trước tăng 37,03%, tăng 53,17% so với cùng kỳ năm trước và bình quân cùng kỳ tăng 41,29%. Giá Vàng bình quân là 11.601 ngàn đồng/1 chỉ, tăng 1.273 ngàn đồng/1 chỉ so với tháng trước. Hiện nay, giá vàng có giá phổ biến ở mức từ 11.400 – 11.500 ngàn đồng/chỉ.

Chỉ số giá Đô la Mỹ tháng 5 tăng 0,84% so với tháng trước; so với tháng 12 năm trước tăng 2,59%, tăng 2,68% so với cùng kỳ năm trước và bình quân năm trước tăng 3,61%. Giá bình quân của Đô la Mỹ loại tờ (50 – 100 USD) là 2.614.904 đồng/100USD, tăng 21.781 đồng/100USD so với tháng trước. Hiện nay, giá Đô la Mỹ trên thị trường Hải Dương đang có mức giá giao động từ 2.600.000 – 2.614.000 đồng/100USD.

  1. Thu, Chi ngân sách nhà nước

6.1. Thu, chi ngân sách nhà nước

Tổng thu ngân sách nhà nước trên địa bàn tính đến hết ngày 31/5 đạt 15.754 tỷ đồng, tăng 28,6% so với cùng kỳ năm trước; trong đó, thu nội địa đạt 14.024 tỷ đồng, thu qua Hải quan đạt 1.706 tỷ đồng.

Tổng chi ngân sách nhà nước tính đến hết ngày 31/5 đạt 15.766 tỷ đồng, bằng 89,7% so với cùng kỳ; trong đó, chi đầu tư phát triển đạt 8.148 tỷ đồng, chi thường xuyên đạt 7.589 tỷ đồng.

6.2. Hoạt động tín dụng, ngân hàng

Hoạt động ngân hàng trên địa bàn ổn định, đáp ứng đầy đủ nhu cầu dịch vụ của các tổ chức, cá nhân; Tín dụng tiếp tục tập trung vào các ngành, lĩnh vực ưu tiên, sản xuất kinh doanh theo chỉ đạo của Chính phủ; đẩy mạnh công tác tuyên truyền và triển khai có hiêu quả các chương trình, chính sách tín dụng, các giải pháp tháo gỡ khó khăn cho khách hàng; nợ xấu trong tầm kiểm soát.

Tổng nguồn vốn huy động ước đạt 225.997 tỷ đồng, tăng 0,97%; dư nợ tín dụng đạt 160.424 tỷ đồng, tăng 0,65% so với cùng kỳ năm trước. Chất lượng tín dụng được kiểm soát tốt, nợ xấu nội bảng chiếm 0,88% tổng dư nợ./.

Download báo cáo