Tình hình kinh tế tháng 4 và 4 tháng đầu năm cơ bản phát triển khá: thời tiết thuận lợi cho cây trồng phát triển, dịch bệnh trên đàn gia súc gia cầm không phát sinh; công nghiệp tiếp tục tăng do dư địa tăng trưởng trong quý I/2025 đã tạo đà cho sản xuất công nghiệp, đặc biệt là công nghiệp chế biến, chế tạo trong tháng 4 tiếp tục duy trì mức tăng trưởng khả quan; hoạt động thương mại, dịch vụ phát triển tốt, nguồn cung hàng hóa dồi dào.
- Sản xuất nông, lâm nghiệp và thuỷ sản
Tháng 4/2025, sản xuất nông, lâm, thủy sản trên địa bàn tỉnh Hải Dương nhìn chung phát triển ổn định, có nhiều yếu tố thuận lợi. Diện tích gieo trồng vụ chiêm xuân cơ bản hoàn thành đúng tiến độ, cây trồng sinh trưởng tốt, sâu bệnh phát sinh ở mức độ thấp. Chăn nuôi gia cầm trong tỉnh ổn định, không xẩy ra dịch bệnh nên đàn gia cầm phát triển tốt. Chăn nuôi lợn của các loại hình doanh nghiệp, trang trại, hộ chăn nuôi qui mô lớn cho hiệu quả kinh tế cao, phát triển mạnh.
1.1. Trồng trọt
Vụ chiêm xuân năm 2025, toàn tỉnh gieo trồng sơ bộ đạt 63.646 ha, giảm 0,58% so với cùng kỳ năm 2024. Trong đó, diện tích lúa chiêm xuân đạt 53.261 ha, giảm 1,19%; diện tích rau các loại sơ bộ đạt 6.848 ha, tăng 1,68% so với cùng kỳ. Tổng diện tích gieo trồng giảm, chủ yếu do diện tích lúa giảm (giảm 644 ha). Nguyên nhân chính làm giảm diện tích gieo trồng lúa vụ chiêm xuân năm 2025 là do: Chuyển đổi sang trồng cây lâu năm; chuyển mục đích sử dụng đất phục vụ xây dựng khu công nghiệp, đường giao thông, mở rộng khu dân cư; và một phần diện tích chuyển sang nuôi trồng thủy sản.
Đối với cây lâu năm, từ đầu năm 2025 đến nay diễn biến thời tiết khá thuận lợi cho các loại cây nông nghiệp sinh trưởng và phát triển; công tác chăm sóc, phòng trừ sâu bệnh cho cây trồng được quan tâm thực hiện có hiệu quả nên hầu hết các loại cây ăn quả đều sinh trưởng, phát triển tốt; đặc biệt, đối với cây vải, cây nhãn tỷ lệ ra hoa, đậu quả cao, khả năng cho năng suất, sản lượng cao hơn so với năm 2024.
1.2. Chăn nuôi
Trâu, bò: Tổng đàn trâu, bò của tỉnh duy trì ổn định. Tính đến 30/4/2025, đàn trâu ước đạt 5.430 con, giảm 0,37%; đàn bò ước đạt 14.250 con, giảm 2,46% so với cùng kỳ năm 2024. Nguyên nhân đàn trâu, bò giảm chủ yếu do hiệu quả kinh tế từ chăn nuôi chưa cao, nguồn cung giống trâu khan hiếm, đồng thời diện tích chăn thả tự nhiên bị thu hẹp bởi quá trình đô thị hóa.
Lợn: Chăn nuôi lợn phát triển tốt nhờ làm tốt công tác phòng, chống dịch bệnh, dịch bệnh không xuất hiện trên địa bàn tỉnh. Các địa phương đã ban hành cơ chế, chính sách hỗ trợ, tạo điều kiện thúc đẩy phát triển chăn nuôi.
Ước đến 30/4/2025, tổng đàn lợn (không tính lợn con chưa tách mẹ) ước đạt 463.500 con, tăng 5,53% so với cùng kỳ năm trước. Sản lượng thịt lợn hơi xuất chuồng ước đạt 6.300 tấn, tăng 5,3%. Chăn nuôi lợn tại các doanh nghiệp, trang trại và hộ chăn nuôi quy mô lớn tiếp tục cho hiệu quả kinh tế cao, phát triển ổn định nhờ chủ động về nguồn giống, thị trường tiêu thụ, thực hiện tốt công tác vệ sinh môi trường và phòng, chống dịch bệnh.
Gia cầm: Tại thời điểm 30/4/2025, tổng đàn gia cầm (gồm gà, vịt, ngan) ước đạt 16.102 nghìn con, tăng 7,3% so với cùng kỳ năm 2024; trong đó đàn gà ước đạt 12.958 nghìn con, tăng 5,36%. Sản lượng thịt gia cầm trong tháng 4 ước đạt 6.520 tấn, tăng 7,2%; sản lượng trứng gia cầm (bao gồm cả trứng chim cút) ước đạt 55.120 nghìn quả, tăng 3,52% so với cùng kỳ năm trước.
Đàn gia cầm tăng trưởng khá do các hộ chăn nuôi thực hiện tốt công tác phòng bệnh, vệ sinh môi trường, dịch bệnh không phát sinh. Bên cạnh đó, giá bán thịt gà hơi xuất chuồng duy trì ở mức cao, hiệu quả kinh tế đạt khá, người chăn nuôi tiếp tục mở rộng quy mô. Tuy nhiên, chăn nuôi vịt gặp khó khăn trong tiêu thụ sản phẩm, giá thịt vịt hơi giảm, hiệu quả kinh tế thấp, dẫn tới xu hướng thu hẹp quy mô sản xuất; dự kiến trong thời gian tới, đàn vịt tăng trưởng chậm.
1.3. Lâm nghiệp
Tính đến hết tháng 4/2025, toàn tỉnh đã trồng được 358.000 cây lâm nghiệp phân tán, tăng 1,42% so với cùng kỳ năm 2024. Các huyện có số lượng cây trồng nhiều gồm Chí Linh, Thanh Hà và Kinh Môn. Cây lâm nghiệp phân tán chủ yếu được trồng trong dịp đầu năm, tập trung tại các khu đô thị mới, công viên, công sở, trường học, khu di tích, danh lam thắng cảnh, khu vực quanh bãi rác, dọc các tuyến đường làng, trục đường ngoài cánh đồng và các trang trại. Các giống cây trồng phổ biến gồm bạch đàn, keo, long não… Sản lượng khai thác gỗ trong tháng 4 ước đạt 1.250 m³, tăng 5,49% so với cùng kỳ năm 2024.
1.4. Thuỷ sản
Trong tháng 4/2025, sản xuất thủy sản trên địa bàn tỉnh Hải Dương phát triển ổn định, không phát sinh dịch bệnh lớn. Công tác vệ sinh phòng trừ dịch bệnh được quan tâm thực hiện thường xuyên nên tình trạng dịch bệnh phát sinh ở mức độ nhẹ hơn so với cùng kỳ năm 2024.
Mô hình nuôi cá siêu thâm canh tiếp tục được mở rộng tại nhiều địa phương, cho năng suất và hiệu quả kinh tế cao. Giá bán sản phẩm thủy sản có xu hướng tăng, tạo động lực để người dân mạnh dạn đầu tư trang thiết bị, ứng dụng công nghệ trong nuôi cá mật độ cao. Sản lượng cá nuôi trồng trong tháng 4 ước đạt 7.260 tấn, tăng 7,7% so với cùng kỳ năm trước.
- Sản xuất công nghiệp
Tháng 4, sản xuất công nghiệp tỉnh Hải Dương tăng 1,6% so với tháng trước và tăng 14,2% so với cùng kỳ. So với cùng kỳ, một số sản phẩm có lượng sản xuất tăng như: thức ăn gia súc tăng 16,9%; quần áo người lớn tăng 26,9%; giày dép thể thao tăng 24,5%; than cốc tăng 5,7%; các sản phẩm từ cao su và plastis tăng 12,2%; sắt thép các loại tăng 11,6%; mạch điện tử tích hợp tăng 34,4%; máy kết hợp từ 2 chức năng trở lên: in, quét, coppy… tăng 34,8%; máy phát điện tăng 65,8%; máy văn phòng khác tăng 61,2%; máy khâu công nghiệp tăng 56,5%; xe ô tô từ 5 chỗ trở lên tăng 6,9%; bộ phận thiết bị điện cho xe có động cơ tăng 17,6%…
Tính chung 4 tháng đầu năm so với cùng kỳ, dư địa tăng trưởng trong quý I/2025 đã tạo đà cho sản xuất công nghiệp, đặc biệt là công nghiệp chế biến, chế tạo trong tháng 4 tiếp tục duy trì mức tăng trưởng khả quan. Tính chung 4 tháng đầu năm, sản xuất công nghiệp dự ước tăng 13,5% so với cùng kỳ.
Một số ngành có qui mô lớn, tốc độ tăng trưởng cao tác động nhiều đến mức tăng trưởng chung toàn ngành như sau:
– Ngành sản xuất các sản phẩm điện tử tăng 22,9%, ngành sản xuất thiết bị điện tăng 45,5%, đóng góp 6,6 điểm% vào mức tăng trưởng chung; trong đó, các sản phẩm có sản lượng sản xuất tăng cao như mạch điện tử tích hợp tăng 30,1%; máy kết hợp từ hai chức năng trở lên: in, fax, coppy… tăng 29,8%; máy phát điện tăng 68,1%. Nhu cầu sử dụng các thiết bị điện, điện tử ngày càng gia tăng dẫn tới số lượng đơn hàng xuất khẩu của các doanh nghiệp cũng có sự tăng trưởng rõ rệt. Bên cạnh đó, một số dự án mới và dự án mở rộng mới đi vào hoạt động cũng góp phần không nhỏ tới tăng trưởng của ngành như Dự án của Công ty TNHH Doosan Electro-Materials VN; Công ty TNHH Công nghệ điện tử Guangxun VN; Công ty TNHH Công nghiệp Brother Việt Nam;…
– Ngành sản xuất xe có động cơ tăng 14,8%, đóng góp 2,9 điểm% vào mức tăng trưởng chung; trong đó, xe có động cơ chở được từ 05 người trở lên tăng 25,6%; bộ phận thiết bị điện khác dùng cho xe có động cơ tăng 14,5%. Nhu cầu về phương tiện đi lại của người dân tăng lên, cùng với đó là lãi suất vay vốn thấp đã làm tăng nhu cầu đối với các sản phẩm trong ngành.
– Ngành sản xuất, chế biến thực phẩm tăng 14,3%, đóng góp 0,8 điểm% vào mức tăng trưởng chung (trong đó sản phẩm chính là sản xuất thức ăn chăn nuôi tăng 13,8%). Giá cả nguyên liệu đầu vào như ngô, đậu tương… ổn định trong khi tiêu thụ đầu ra được đảm bảo đã tạo điều kiện thuận lợi cho ngành này phát triển.
– Nhóm ngành dệt, may mặc, giày dép lần lượt tăng 11,9%; 14,9% và 18,6%, đóng góp 1,4 điểm% vào mức tăng trưởng chung. Nhờ việc tận dụng các lợi thế mà các FTA mang lại, bên cạnh các thị trường truyền thống hàng dệt may, da giày của tỉnh cũng đã khai thác những thị trường mới như châu Phi, Trung Đông… Một số doanh nghiệp đã đón được luồng đơn hàng dịch chuyển từ Trung Quốc, Bangladesh, Myanmar. Một số doanh nghiệp đã có đơn hàng ổn định đến hết quý II/2025. Ngoài ra, dự án Tinh Lợi 3 đi vào hoạt động ổn định cũng góp phần không nhỏ vào tăng trưởng của ngành.
– Ngành sản xuất kim loại tăng 8,8%, đóng góp 0,5 điểm% vào mức tăng trưởng chung. Mặc dù thị trường trong nước và xuất khẩu có sự phục hồi, các doanh nghiệp cũng được hưởng lợi khi các biện pháp bảo hộ được tăng cường giúp giảm bớt áp lực cạnh tranh; Tuy nhiên, việc Mỹ áp thuế 25% đối với thép, nhôm nhập khẩu đã ảnh hưởng không nhỏ tới một số doanh nghiệp xuất khẩu trong ngành.
Bên cạnh đó, một số ngành gặp khó khăn do nhu cầu thị trường phục hồi chậm, sản lượng sản xuất so với cùng kỳ giảm, tác động xấu đến tốc độ tăng trưởng chung của toàn ngành đó là:
– Ngành sản xuất và phân phối điện giảm 13,2%, làm tăng trưởng chung toàn ngành công nghiệp giảm 1,3 điểm%, trong đó điện sản xuất giảm 15,4%. Từ đầu năm đến nay, do EVN ưu tiên huy động thuỷ điện nên sản lượng điện phát ra của các nhà máy nhiệt điện đều giảm so với cùng kỳ.
– Ngành sản xuất các sản phẩm từ khoáng phi kim loại giảm 2,9% tác động làm tăng trưởng chung giảm 0,06 điểm%. Tình trạng nguồn cung dư thừa trong khi nhu cầu trong nước chưa có chuyển biến rõ nét; đơn hàng từ các thị trường xuất khẩu suy giảm; giá nguyên liệu đầu vào như điện, than… tăng cao gây nhiều khó khăn cho các doanh nghiệp trong ngành.
– Ngành khai khoáng giảm 11,8% tác động làm chỉ số chung giảm 0,01 điểm%. Nhiều vùng khai thác đã hết hạn trong khi các mỏ khoáng sản mới chưa được đưa vào vận hành dẫn đến tình trạng thiếu hụt nguyên liệu sản xuất.
2.2. Chỉ số sử dụng lao động
Tình hình sử dụng lao động trong các doanh nghiệp công nghiệp tại thời điểm 30/4/2025 dự ước tăng 0,3% so với tháng trước và tăng 2,9% so với cùng kỳ năm 2024.
Tính chung 4 tháng đầu năm 2025, lao động trong ngành tăng 1,9% so với cùng kỳ; trong đó, một số ngành sử dụng nhiều lao động như may mặc, giày dép, điện tử, ô tô và bộ phận phụ trợ đều có số lượng lao động tăng; cụ thể: Sản xuất, chế biến thực phẩm tăng 2,4%; dệt tăng 5,4%; sản xuất trang phục tăng 1,0%; sản xuất da và các sản phẩm có liên quan tăng 0,8%; sản xuất giấy và sản phẩm từ giấy tăng 2,4%; sản xuất cao su và plastic tăng 3,3%; sản xuất sản phẩm điện tử tăng 2,5%; sản xuất thiết bị điện tăng 3,2%; sản xuất máy móc thiết bị chưa được phân vào đâu tăng 4,0%; sản xuất xe có động cơ tăng 0,3%; công nghiệp chế biến, chế tạo khác tăng 5,2%…
Các ngành có số lượng lao động 4 tháng đầu năm giảm so với cùng kỳ năm trước là: Khai khoáng khác giảm 5,2%; sản xuất sản phẩm từ khoáng phi kim loại khác giảm 5,8%; sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước… giảm 1,1%.
- Hoạt động đầu tư
Xác định nhiệm vụ đẩy mạnh giải ngân kế hoạch vốn đầu tư công năm 2025 là một trong những nhiệm vụ chính trị trọng tâm hàng đầu cần ưu tiên tập trung lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện. UBND tỉnh luôn bám sát sự chỉ đạo, điều hành của Thủ tướng Chính phủ về đẩy mạnh phân bổ và giải ngân vốn đầu tư công. Tập trung thực hiện các biện pháp, giải pháp linh hoạt, sáng tạo, kịp thời, hiệu quả để quyết liệt đẩy mạnh thực hiện và giải ngân vốn đầu tư công; đẩy nhanh tiến độ triển khai các công trình, dự án trọng điểm. Việc đẩy mạnh tiến độ giải ngân vốn đầu tư công phải gắn với bảo đảm chất lượng công trình, dự án, không để xảy ra tiêu cực, thất thoát, lãng phí, lợi ích nhóm.
Ước tháng 4, vốn đầu tư thuộc nguồn vốn ngân sách nhà nước do địa phương quản lý đạt 576,5 tỷ đồng, tăng 84,3% so với cùng kỳ năm trước; trong đó, vốn ngân sách nhà nước cấp tỉnh đạt 374,5 tỷ đồng, tăng 98,6%; vốn ngân sách nhà nước cấp huyện đạt 186,7 tỷ đồng, tăng 69,3 vốn ngân sách cấp xã đạt 15,4 tỷ đồng, tăng 9,7%.
Tính chung 4 tháng đầu năm, tổng vốn đầu tư thuộc nguồn vốn ngân sách nhà nước do địa phương quản lý ước đạt 1.920,4 tỷ đồng, tăng 76,1% so với cùng kỳ năm trước, đạt 18,4% kế hoạch năm; trong đó: vốn ngân sách nhà nước cấp tỉnh ước đạt 1.096,3 tỷ đồng, chiếm 57,1% tổng vốn đầu tư, tăng 74,6%; vốn ngân sách nhà nước cấp huyện ước đạt 761,0 tỷ đồng, chiếm 39,6% tổng vốn đầu tư, tăng 87,2%; vốn ngân sách nhà nước cấp xã ước đạt 63,1 tỷ đồng, chiếm 3,3% tổng vốn đầu tư, tăng 12,5% so với cùng kỳ năm trước.
Trong bối cảnh kinh tế thế giới có nhiều biến động khó lường, ảnh hưởng việc Mỹ áp thuế hàng xuất khẩu của Việt Nam, kết quả giải ngân vốn đầu tư công có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, góp phần thúc đẩy tăng trưởng, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế, tạo việc làm, sinh kế cho người dân, thực hiện thắng lợi kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội năm 2025.
* Một số công trình lớn thực hiện trong tháng như:
– Dự án Cải tạo, nâng cấp đường 395 (đoạn từ km16+750+km23+920) và đường dẫn đầu cầu cậy, đường tránh qua KDC xã Long Xuyên (2023-2025 với tổng mức đầu tư 817,1 tỷ đồng), ước thực hiện trong tháng 4/2025 đạt 52,2 tỷ đồng, tổng vốn đầu tư thực hiện từ khi khởi công đến thời điểm hiện tại ước đạt 679,5 tỷ đồng, đạt 83,2% tổng mức đầu tư;
– Dự án Đầu tư xây dựng nút giao liên thông kết nối Quốc lộ 17B với Quốc lộ 5, đường sắt Hà Nội – Hải Phòng, tỉnh Hải Dương (2024-2026 với tổng mức đầu tư 1.867 tỷ đồng), ước thực hiện trong tháng 4/2025 đạt 50,2 tỷ đồng, tổng vốn đầu tư thực hiện từ khi khởi công đến thời điểm hiện tại ước đạt 700 tỷ đồng, đạt 37,5% tổng mức đầu tư;
– Dự án Đầu tư xây dựng tuyến đường và cầu Vạn kết nối Quốc lộ 37, thành phố Chí Linh với đường dẫn cầu Triều, thị xã Kinh Môn (2024-2030 với tổng mức đầu tư 1.296,2 tỷ đồng), ước thực hiện trong tháng 4/2025 đạt 45,7 tỷ đồng, tổng vốn đầu tư thực hiện từ khi khởi công đến thời điểm hiện tại ước đạt 219,5 tỷ đồng, đạt 16,9% tổng mức đầu tư;
– Dự án Đầu tư xây dựng tuyến đường kết nối Quốc lộ 17B với đường tỉnh 352 TPHD đoạn từ Quốc lộ 17B đến sông Kinh Thầy, thị xã Kinh Môn (2025-2026 với tổng mức đầu tư 785,1 tỷ đồng), ước thực hiện trong tháng 4/2025 đạt 40,3 tỷ đồng, tổng vốn đầu tư thực hiện từ khi khởi công đến thời điểm hiện tại ước đạt 70,1 tỷ đồng, đạt 8,9% tổng mức đầu tư;
– Dự án Đầu tư xây dựng cầu Tân An và đường dẫn nối quốc lộ 18, thành phố Chí Linh (2024-2026 với tổng mức đầu tư 600 tỷ đồng), ước thực hiện trong tháng 4/2025 đạt 37,2 tỷ đồng, tổng vốn đầu tư thực hiện từ khi khởi công đến thời điểm hiện tại ước đạt 151,2 tỷ đồng, đạt 25,2% tổng mức đầu tư…
- Thương mại, giá cả, dịch vụ
Tháng 04, hoạt động thương mại duy trì mức tăng trưởng khá, thị trường hàng hóa tương đối ổn định, không có biến động bất thường. Các mặt hàng thiết yếu không có biến động lớn về cung cầu, sức mua tiêu dùng tăng nhẹ, lượng cung hàng hóa trên thị trường dồi dào, đáp ứng nhu cầu, tiêu dùng của người dân và cho sản xuất. Thời gian gần đây, giá xăng dầu tiếp tục giảm cũng góp phần tác động tích cực đến tình hình sản xuất kinh doanh và sức mua trong dân cư.
Tháng 4, tổng mức bán lẻ và doanh thu dịch vụ tiêu dùng ước đạt 9.281 tỷ đồng, tăng 13,3% so với cùng kỳ năm trước. Doanh thu hoạt động vận tải kho bãi ước đạt 1.583 tỷ đồng, tăng 20,0% so với cùng kỳ năm trước.
Tính chung 4 tháng đầu năm, tổng mức bán lẻ và doanh thu dịch vụ tiêu dùng ước đạt 37.370 tỷ đồng, tăng 17,2% so với cùng kỳ năm trước; doanh thu hoạt động vận tải kho bãi ước đạt 6.087 tỷ đồng, tăng 14,9%.
4.1. Bán lẻ hàng hoá
Doanh thu bán lẻ hàng hoá tháng 4 ước đạt 7.601 tỷ đồng, giảm 1,5% so với tháng trước và tăng 16,4% so với cùng kỳ năm trước.
Tính chung 4 tháng, doanh thu bán lẻ hàng hoá ước đạt 30.738 tỷ đồng, tăng 17,4% so với cùng kỳ năm trước. Phân theo mặt hàng: Nhóm lương thực, thực phẩm đạt 11.643 tỷ đồng, tăng 19,9%, là nhóm chiếm tỷ trọng lớn nhất với 37,9%; nhóm đồ dùng, dụng cụ trang thiết bị gia đình đạt 3.602 tỷ đồng, tăng 16,4%; nhóm gỗ và vật liệu xây dựng đạt 3.587 tỷ đồng, tăng 21,2%; xăng, dầu các loại đạt 2.921 tỷ đồng, tăng 15,3%.
4.2. Doanh thu dịch vụ tiêu dùng
Doanh thu dịch vụ tiêu dùng xã hội tháng 4 ước đạt 1.680 tỷ đồng, tăng 1,0% so với tháng trước và tăng 4,5% so với cùng kỳ.
Doanh thu dịch vụ tiêu dùng xã hội 4 tháng ước đạt 6.632 tỷ đồng, tăng 16,3% so với cùng kỳ năm trước. Phân theo ngành kinh tế, dịch vụ lưu trú đạt 109 tỷ đồng, tăng 38,4% so với cùng kỳ năm trước; dịch vụ ăn uống đạt 2.486 tỷ đồng, tăng 33,1%; dịch vụ khác đạt 1.967 tỷ đồng, tăng 7,2% so với cùng kỳ năm trước.
4.3. Vận tải
Tháng 4, doanh thu vận tải, kho bãi và hỗ trợ vận tải ước đạt đạt 1.583 tỷ đồng, tăng 20,0% so với cùng kỳ năm trước; trong đó, doanh thu vận tải hành khách tăng 14,5%; doanh thu vận tải hàng hoá tăng 20,2%.
Tính chung 4 tháng đầu năm, doanh thu vận tải, kho bãi và hỗ trợ vận tải ước đạt 6.087 tỷ đồng, tăng 14,9% so với cùng kỳ năm trước; trong đó: vận tải hành khách tăng 12,4%; vận tải hàng hoá tăng 13,6%.
Hoạt động kinh doanh vận tải khá ổn định và có mức tăng trưởng khá so với cùng kỳ. Những tháng đầu năm, giá xăng, dầu có hướng giảm nhẹ, ngành sản xuất công nghiệp, xây dựng và hoạt động thương mại có tốc độ tăng trưởng khá, cùng với nhu cầu đi lại du xuân đầu năm của người dân nhiều… đã tạo đà cho hoạt động vận tải tăng trưởng.
4.4. Xuất, nhập khẩu hàng hoá
Giá trị hàng hóa xuất khẩu tháng 4 ước đạt 989,7 triệu USD, tăng 23,6% so với tháng 4 năm trước; tính chung 4 tháng đầu năm xuất khẩu ước đạt 3.376,3 triệu USD, tăng 12,6% so với cùng kỳ năm trước. Dù giá trị hàng hoá xuất khẩu tăng thấp hơn mức tăng chung của cả nước, nhưng đây vẫn là mức tăng cao nhất trong những năm gần đây.
Giá trị hàng hoá nhập khẩu tháng 4 ước đạt 1.031,0 triệu USD, tăng 21,3% so với tháng 4 năm trước; tính chung 4 tháng đầu năm nhập khẩu ước đạt 3.138,1 triệu USD tăng 27,7% so với cùng kỳ năm trước.
- Chỉ số giá tiêu dùng
Theo phương pháp chỉ số, giá tiêu dùng (CPI) tháng 4 giảm 0,1% (khu vực thành thị tăng 0,05%; khu vực nông thôn giảm 0,13%) so với tháng trước; bình quân tăng 5,05% so với cùng kỳ năm trước. So với tháng trước, có 06 nhóm hàng hóa và dịch vụ tăng giá và 04 nhóm giảm giá, riêng nhóm giáo dục giữ giá ổn định.
Các nhóm mặt hàng tăng giá gồm: Hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 0,21%, tăng chủ yếu ở nhóm hàng thịt lợn tăng 0,37% do nguồn cung hạn chế; văn hóa giải trí và du lịch tăng 0,46%; thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 0,06%; thuốc và dịch vụ y tế, đồ uống thuốc lá đều tăng 0,03%; hàng hóa và dịch vụ khác tăng 0,02%.
Trong 04 nhóm hàng giảm giá, nhóm Nhà ở, điện, nước, chất đốt và vật liệu xây dựng với mức giảm nhiều nhất, giảm 0,38%, giảm chủ yếu ở nhóm nước sinh hoạt, giảm 1,49%, điện sinh hoạt giảm 1,57% và dầu hỏa giảm 3,58%; Nhóm giảm tiếp theo là nhóm may mặc, mũ nón và giầy dép giảm 0,14%; nhóm giao thông giảm 0,13% và nhóm bưu chính viễn thông giảm 0,03%;
Giá vàng tháng 4 tăng cao do ảnh hưởng của giá vàng thế giới tăng. Chỉ số giá Vàng tháng này tăng 10,52% so tháng trước; so với tháng 12 năm trước tăng 21,99%, tăng 41,29% so với cùng kỳ năm trước và bình quân cùng kỳ tăng 38,46%. Giá Vàng bình quân là 10.328 ngàn đồng/1 chỉ, tăng 983 ngàn đồng/1 chỉ so với tháng trước. Hiện nay, giá vàng có giá phổ biến ở mức từ 11.550 – 11.620 ngàn đồng/chỉ.
Chỉ số giá Đô la Mỹ tháng 4 tăng 0,88% so với tháng trước; so với tháng 12 năm trước tăng 1,74%, tăng 3,17% so với cùng kỳ năm trước và bình quân năm trước tăng 3,84%. Giá bình quân của Đô la Mỹ loại tờ (50 – 100 USD) là 2.593.123 đồng/100USD, tăng 22.581 đồng/100USD so với tháng trước. Hiện nay, giá Đô la Mỹ trên thị trường Hải Dương đang có mức giá giao động từ 2.590.150 – 2.595.220 đồng/100USD.
- Thu, Chi ngân sách nhà nước
6.1. Thu, chi ngân sách nhà nước
Tổng thu ngân sách nhà nước trên địa bàn tính đến hết ngày 15/4 đạt 10.624 tỷ đồng; nâng tổng thu ngân sách nhà nước từ đầu năm đến 30/4 ước đạt 10.989 tỷ đồng, tăng 10,1% so với cùng kỳ năm trước; trong đó, thu nội địa ước đạt 10.043 tỷ đồng, thu qua Hải quan đạt 931 tỷ đồng.
Tổng chi ngân sách nhà nước tính đến hết ngày 15/4 đạt 10.421 tỷ đồng; nâng tổng chi ngân sách nhà nước ước đến ngày 30/4 đạt 11.122 tỷ đồng, bằng 155,8% so với cùng kỳ; trong đó, chi đầu tư phát triển đạt 5.358 tỷ đồng, chi thường xuyên đạt 5.736 tỷ đồng.
6.2. Hoạt động tín dụng, ngân hàng
Hoạt động ngân hàng trên địa bàn ổn định, đáp ứng đầy đủ nhu cầu dịch vụ của các tổ chức, cá nhân; Tín dụng tiếp tục tập trung vào các ngành, lĩnh vực ưu tiên, sản xuất kinh doanh theo chỉ đạo của Chính phủ; đẩy mạnh công tác tuyên truyền và triển khai có hiêu quả các chương trình, chính sách tín dụng, các giải pháp tháo gỡ khó khăn cho khách hàng; nợ xấu trong tầm kiểm soát.
Tổng nguồn vốn huy động ước đạt 221.525 tỷ đồng, tăng 11,7%; dư nợ tín dụng đạt 155.439 tỷ đồng, tăng 16,5% so với cùng kỳ năm trước. Chất lượng tín dụng được kiểm soát tốt, nợ xấu nội bảng chiếm 0,86% tổng dư nợ./.