Tình hình kinh tế – xã hội tháng Hai năm 2024 diễn ra trong bối cảnh cả nước đón Tết Nguyên đán Giáp Thìn, các hoạt động du lịch, dịch vụ nhìn chung sôi động. Với quyết tâm tạo động lực đột phá để phát triển kinh tế – xã hội theo mục tiêu đề ra, Tỉnh uỷ, HĐND và UBND chỉ đạo quyết liệt các Sở, ban ngành, địa phương tập trung triển khai thực hiện các nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm sau Tết Nguyên đán.
1. Sản xuất nông, lâm nghiệp và thuỷ sản
1.1. Trồng trọt
Vụ đông 2024, toàn tỉnh gieo trồng được 22.390 ha, tăng 1,75% (+385 ha) so với năm trước; trong đó, cây ngô đạt 1.446 ha, tăng 7,3% (+98 ha); rau các loại đạt 17.928 ha, tăng 1,3% (+225 ha)…
Hiệu quả sản xuất vụ đông năm nay đạt khá. Một số cây chủ lực của tỉnh như: cà rốt, bắp cải… cho năng suất, sản lượng cao hơn so năm trước. Thu nhập một sào bắp cải, su hào, súp lơ (đã trừ chi phí) giao động từ 5 đến 7 triệu đồng/sào; riêng cây hành củ vụ đông năm nay giá bán tăng cao so với cùng kỳ năm trước.
Vụ chiêm xuân, ước đến hết tháng 02, toàn tỉnh gieo cấy được 53.600 ha lúa chiêm xuân, giảm 1,3% so với cùng kỳ năm trước. Ngoài việc tích cực gieo cấy lúa chiêm xuân đúng cơ cấu, kịp thời vụ, các địa phương đang khẩn trương gieo trồng các loại cây rau, màu vụ xuân như: Cây ngô, lạc, bí xanh, bắp cải, dưa hấu… diện tích gieo trồng đạt gần 5.000 ha rau màu, tương đương với cùng kỳ năm trước.
1.2. Chăn nuôi
Công tác phòng trừ dịch bệnh được quan tâm chú trọng nên dịch bệnh không xuất hiện trên đàn gia súc, gia cầm.
Lợn: Chăn nuôi lợn với qui mô lớn cho hiệu quả kinh tế cao, phát triển tốt do chủ động chuỗi cung ứng đầu vào và đầu ra, công tác vệ sinh, phòng chống dịch bệnh, bảo vệ môi trường hiệu quả.
Tổng đàn lợn tại thời điểm 29/02/2024 ước đạt 432.829 con, tăng 3,2%; trong đó lợn thịt ước đạt 295.370 con, tăng 4,1% so với cùng kỳ năm trước. Sản lượng thịt hơi xuất chuồng tháng 02 ước đạt 5.700 tấn, tăng 6,4% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung 02 tháng đầu năm, sản lượng thịt hơi xuất chuồng ước đạt 11.219 tấn, tăng 4,8%.
Gia cầm: Giá bán thịt gà hơi xuất chuồng hiện duy trì ở mức khá, đem lại hiệu quả kinh tế cho người chăn nuôi. Tuy nhiên, chăn nuôi vịt đang gặp khó khăn trong khâu tiêu thụ sản phẩm đầu ra, giá thịt vịt hơi giảm nhẹ, quy mô đàn vịt có xu hướng tăng trưởng chậm.
Tại thời điểm 29/02/2024, đàn gia cầm (gà, vịt, ngan, ngỗng và gia cầm khác) ước đạt 16.424 nghìn con, tăng 3,1% so với cùng kỳ năm trước. Sản lượng thịt gia cầm tháng 02 ước đạt 5.782 tấn, tăng 4,5%; sản lượng trứng (bao gồm cả trứng chim cút) ước đạt 51.039 nghìn quả, tăng 2,1% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung 02 tháng đầu năm, sản lượng thịt gia cầm ước đạt 11.556 tấn, tăng 4,3%.
Trâu, bò: Đàn trâu trên địa bàn tỉnh được duy trì ổn định, tại thời điểm 29/02/2024, đàn trâu ước đạt 5.470 con, tăng 0,4%; tổng đàn bò toàn tỉnh ước đạt 14.400 con, tăng 0,8% so với cùng kỳ năm trước. Sản lượng thịt trâu, bò hơi xuất chuồng tháng 02 ước đạt 226 tấn, tăng 4,9% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung 02 tháng đầu năm, sản lượng thịt trâu, bò hơi xuất chuồng ước đạt 435 tấn, tăng 2,3% so với cùng kỳ năm trước.
1.3 Thủy sản
Sản xuất thủy sản trong tỉnh ổn định. Công tác vệ sinh phòng trừ dịch bệnh được quan tâm thực hiện thường xuyên nên không có dịch bệnh phát sinh; diễn biến thời tiết thuận lợi, nhiệt độ thích hợp cho nuôi trồng thủy sản nên các loài cá phát triển tốt, cho năng suất cao.
Phương thức nuôi thủy sản lồng/bè được duy trì phát triển tốt, các giống cá chủ lực và giống đặc sản cho năng suất và giá trị cao được duy trì và phát triển.
Mô hình nuôi cá siêu thâm canh cho năng suất, hiệu quả kinh tế cao được mở rộng ở các địa phương; giá bán sản phẩm đầu ra có xu hướng tăng, người nông dân mạnh dạn đầu tư trang thiết bị để nuôi cá mật độ cao, sản lượng thủy sản nuôi trồng tháng 02 và 02 tháng đầu năm ước tăng trên 7% so với cùng kỳ năm trước.
2. Sản xuất công nghiệp
Do ảnh hưởng của kỳ nghỉ tết Nguyên đán Giáp Thìn, hầu hết các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh đều cho người lao động nghỉ lễ dài ngày nên lượng sản xuất công nghiệp tháng 2/2024 đều giảm. Tuy nhiên do tháng đầu năm nay lượng sản xuất tăng cao nên tính chung 2 tháng đầu năm, sản xuất công nghiệp của tỉnh vẫn đạt mức tăng trưởng khá.
2.1. Chỉ số sản xuất công nghiệp
So với tháng trước, tháng 02 vừa là tháng có số ngày ít nhất trong năm, vừa là tháng có kỳ nghỉ Tết kéo dài nên chênh lệch số ngày làm việc rất lớn. Chỉ số sản xuất công nghiệp tháng 02 giảm 25,5% so với tháng trước; giảm ở tất cả các ngành, trong đó: khai khoáng giảm 26,4%; công nghiệp chế biến, chế tạo giảm 27,4%; cung cấp nước và xử lý rác thải, nước thải giảm 7,3%; sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước, điều hoà giảm 13,8%.
So với cùng kỳ năm trước, chênh lệch về số ngày làm việc do kỳ nghỉ Tết chỉ bằng 85,7% (24/28 ngày), nên chỉ số sản xuất công nghiệp tháng 02 bằng 90,0% so với cùng kỳ. Như vậy, nếu loại trừ yếu tố ngày làm việc giảm thì sản xuất công nghiệp tháng 02 vẫn sẽ tăng khoảng 5% so với cùng kỳ năm trước. Điều này cũng phản ánh đúng xu hướng kinh tế thế giới đang phục hồi, sức cầu đã quay trở lại; nhiều doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh thời gian qua đã tận dụng được các chính sách hỗ trợ của Chính phủ để đầu tư công nghệ, tái cơ cấu doanh nghiệp nên sản lượng sản xuất đang dần được cải thiện, doanh nghiệp tận dụng được các cơ hội, có thêm nhiều đơn hàng mới.
Tính chung 02 tháng đầu năm, sản xuất công nghiệp bằng 111,9% so với cùng kỳ năm trước. Một số ngành có tỷ trọng lớn, có chỉ số tăng cao tác động nhiều đến chỉ số chung của toàn ngành như sau:
– Ngành sản xuất các sản phẩm điện tử tăng 15,2% so với cùng kỳ năm trước, làm chỉ số chung tăng 3,2 điểm%. Sau một thời gian gặp nhiều khó khăn, bước sang năm 2024, ngành công nghiệp điện tử đang có kỳ vọng tăng trưởng trở lại do tác động của các yếu tố như sự thâm nhập và phát triển của chip nhớ, nhu cầu về chip AI tăng mạnh và sự phục hồi dần dần của nhu cầu smartphone và các thiết bị thông tin giải trí.
– Ngành sản xuất xe có động cơ tăng 13,2% so với cùng kỳ năm trước, làm chỉ số chung tăng 4,0 điểm%; trong đó, bộ dây đánh lửa và bộ dây khác sử dụng cho xe có động cơ tăng 19,1%; bộ phận thiết bị điện sử dụng cho xe có động cơ tăng 20,2%. Riêng lượng sản xuất xe ô tô giảm 37,3% do chính sách ưu đãi trước bạ 50% dành cho xe lắp ráp trong nước đã hết hiệu lực, nên doanh số xe bán những tháng đầu năm không được như kỳ vọng.
– Nhóm ngành sản xuất trang phục, giày dép tăng lần lượt 8,3% và 10,4%, làm chỉ số chung tăng 0,7 điểm%. Từ quý IV/2023 đến nay, số lượng đơn hàng của nhiều doanh nghiệp trong ngành đã có chuyển biến khi thị trường lớn nhất là Mỹ đã có khởi sắc hơn với việc tỷ lệ lao động có việc làm duy trì ở mức ổn định; lãi suất kỳ vọng giảm đã làm nhu cầu tiêu dùng của thị trường này tăng lên. Ngoài ra việc một số nhà máy mới như dự án Tinh Lợi 3 chuẩn bị đi vào hoạt động trong quý I/2024 cũng góp phần không nhỏ vào mức tăng trưởng chung của ngành trong thời gian tới.
– Ngành sản xuất, chế biến thực phẩm tăng 18,3%; làm chỉ số chung tăng 1,0 điểm%. Thời gian qua, ngành chăn nuôi trong nước phát triển ổn định, dịch bệnh được kiểm soát tốt, số lượng đàn vật nuôi tăng, nên nhu cầu đối với thức ăn chăn nuôi được đảm bảo. Ngoài ra, một số doanh nghiệp mở rộng nhà xưởng như Công ty CP dinh dưỡng quốc tế CNC, cũng góp phần tăng lượng sản xuất của ngành.
– Ngành sản xuất thiết bị điện tăng 50,8%; làm chỉ số chung tăng 0,9 điểm%. Từ cuối năm 2023 trở lại đây, Công ty TNHH Ducar Việt Nam chủ yếu sản xuất máy phát điện xuất sang thị trường Mỹ và Châu Âu đã có sự hổi phục đơn hàng đáng kể, sản lượng máy phát điện 2 tháng đầu năm của doanh nghiệp gấp gần 4 lần cùng kỳ năm trước, qua đó tác động lớn đến mức tăng chung của ngành.
– Ngành sản xuất và phân phối điện tăng 13,7%; làm chỉ số chung tăng 1,6 điểm%. Do dự báo ảnh hưởng của hiện tượng El Nino trong năm 2024, Tập đoàn Điện lực Việt Nam đã lập lịch huy động cao các nhà máy nhiệt điện ngay từ đầu năm 2024 để dành nguồn thuỷ điện phục vụ các tháng cao điểm mùa nắng nóng của năm. Cùng với đó, tổ máy S6 của Công ty CP Nhiệt điện Phả Lại đã khắc phục xong sự cố và đưa vào vận hành từ tháng 9/2023 nên sản lượng điện sản xuất từ đầu năm 2024 tăng so với cùng kỳ.
Bên cạnh đó, cũng có một số ngành tốc độ tăng trưởng còn thấp, sản lượng tăng không cao, làm ảnh hưởng đến tốc độ tăng trưởng chung của toàn ngành:
– Ngành sản xuất kim loại tăng 2,3%; làm chỉ số chung tăng 0,03 điểm%. Những tháng đầu năm, giá thép và sức mua đã dần khôi phục trở lại, giúp kinh doanh của nhiều doanh nghiệp khả quan hơn. Thị trường trong nước bao gồm cả khu vực dân dụng và dự án đầu tư công có một số tín hiệu đáng mừng sau thời gian dài trầm lắng. Đối với thị trường xuất khẩu, nhu cầu phục hồi tại EU và Mỹ đã tác động tích cực đến sản lượng và giá tôn mạ xuất khẩu, thép xuất khẩu.
– Ngành sản xuất các sản phẩm từ khoáng phi kim loại giảm 5,5%; làm chỉ số chung giảm 0,08 điểm%. Mặc dù thị trường bất động sản dự báo phục hồi, nhưng chưa thể sớm sôi động trở lại, trong khi nguồn cung xi măng tiếp tục vượt xa so với cầu, kênh xuất khẩu cũng khó tăng do áp lực cạnh tranh từ nhiều quốc gia xuất khẩu như Trung Quốc, Thổ Nhĩ Kỳ… Dù dự báo thời gian tới ngành cũng sẽ có chuyển biến dần theo hướng tích cực tuy nhiên tốc độ tăng trưởng sẽ không cao.
2.2. Chỉ số sử dụng lao động
Tình hình sử dụng lao động trong các doanh nghiệp công nghiệp chế biến chế tạo tại thời điểm 01/02/2024 tương đương so với tháng trước; tăng 2,0% so với cùng kỳ năm trước.
Tính chung 02 tháng đầu năm chỉ số sử dụng lao động bằng 101,6%; trong đó các ngành có chỉ số sử dụng lao động tăng so với cùng kỳ năm trước là: Sản xuất, chế biến thực phẩm tăng 2,5%; sản xuất đồ uống tăng 3,2%; dệt tăng 6,7%; sản xuất giấy và sản phẩm từ giấy tăng 2,1%; sản xuất thuốc, hóa dược và dược liệu tăng 2,2%; sản xuất sản phẩm từ cao su và plastis tăng 5,6%; sản xuất sản phẩm điện tử, máy vi tính và sản phẩm quang học tăng 2,9%; sản xuất xe có động cơ tăng 1,8%.
Các ngành có chỉ số sử dụng lao động giảm so với cùng kỳ năm trước là: Khai khoáng khác giảm 7,0%; chế biến gỗ và các sản phẩm từ gỗ giảm 12,8%; sản xuất sản phẩm từ khoáng phi kim loại giảm 4,2%; sản xuất máy móc, thiết bị chưa được phân vào đâu giảm 3,3%; sửa chữa, bảo dưỡng và lắp đặt máy móc thiết bị giảm 15,0%.
3. Hoạt động đầu tư
Để việc giải ngân vốn đầu tư công năm 2024 theo đúng kế hoạch, ngay từ đầu năm, UBND tỉnh đã ban hành nhiều giải pháp, nhiệm vụ yêu cầu các cấp, các ngành và đơn vị liên quan thực hiện quyết liệt ngay từ những tháng đầu năm. Vì vậy, công tác phân bổ vốn, khắc phục, tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong việc thực hiện các dự án đã được chú trọng và thực hiện quyết liệt.
Ước tháng 2, vốn đầu tư thuộc nguồn vốn ngân sách nhà nước do địa phương quản lý đạt 216 tỷ đồng, giảm 17,3% so với cùng kỳ năm trước; nguyên nhân giảm chủ yếu do trùng với thời gian nghỉ Tết nên tiến độ thực hiện “chùng” xuống.
Tính chung 2 tháng đầu năm, tổng vốn đầu tư thuộc nguồn vốn ngân sách nhà nước do địa phương quản lý ước đạt 497 tỷ đồng, tăng 1,4% so với cùng kỳ năm trước, đạt 7,9% kế hoạch; trong đó: vốn ngân sách nhà nước cấp tỉnh ước đạt 263 tỷ đồng, chiếm 53,0% tổng vốn đầu tư, tăng 6,2%; vốn ngân sách nhà nước cấp huyện ước đạt 205 tỷ đồng, chiếm 41,2% tổng vốn đầu tư, giảm 2,4%; vốn ngân sách nhà nước cấp xã ước đạt 29 tỷ đồng, chiếm 5,8% tổng vốn đầu tư, giảm 11% so với cùng kỳ năm trước.
Tiến độ thực hiện một số công trình lớn trong tháng như sau:
– Dự án Đầu tư xây dựng Bệnh viện Phụ sản giai đoạn II (2023-2025 với tổng mức đầu tư 239,6 tỷ đồng), ước thực hiện trong tháng 2/2024 là 25,8 tỷ đồng và tổng vốn đầu tư thực hiện từ khi khởi công đến thời điểm hiện tại ước đạt 105,2 tỷ đồng, ước đạt 43,9% tổng mức đầu tư;
– Dự án cải tạo, mở rộng đường Vũ Công Đán kết nối thành phố Hải Dương với vùng huyện Cẩm Giàng, Bình Giang (2022-2025 với tổng mức đầu tư là 1157,4 tỷ đồng), ước thực hiện trong tháng 2/2024 đạt 25,7 tỷ đồng, tổng vốn đầu tư thực hiện từ khi khởi công đến thời điểm hiện tại ước đạt 479 tỷ đồng, ước đạt 41,4% tổng mức đầu tư;
– Dự án đầu tư xây dựng đường trục Bắc – Nam, huyện Thanh Miện giai đoạn 1 (2022-2025 với tổng mức đầu tư 397,8 tỷ đồng), ước thực hiện trong tháng 2/2024 là 7,1 tỷ đồng và tổng vốn đầu tư thực hiện từ khi khởi công đến thời điểm hiện tại ước đạt 231,3 tỷ đồng, ước đạt 58,1% tổng mức đầu tư;
– Dự án đầu tư xây dựng đường trục Đông – Tây tỉnh Hải Dương (2021-2024 với tổng mức đầu tư là 1.778,9 tỷ đồng), ước thực hiện trong tháng 2/2024 đạt 10,9 tỷ đồng; tổng vốn đầu tư thực hiện từ khi khởi công đến thời điểm hiện tại ước đạt 1.036,7 tỷ đồng, ước đạt 58,3% tổng mức đầu tư…
4. Thương mại, giá cả, dịch vụ
Nhu cầu tiêu dùng trong dịp tết Nguyên đán tăng cao, nên các hoạt động thương mại, dịch vụ trong tháng 02 sôi động và tăng trưởng khá. Do làm tốt công tác dự trữ, bình ổn giá, nên trong dịp Tết thị trường hàng hóa ổn định, đáp ứng nhu cầu tiêu dùng tăng cao; giá hàng hóa, nhất là các mặt hàng thiết yếu ổn định.
Tháng 02, tổng mức bán lẻ và doanh thu dịch vụ tiêu dùng ước đạt 8.234 tỷ đồng, tăng 14,1% so với cùng kỳ năm trước; doanh thu hoạt động vận tải kho bãi đạt 1.264 tỷ đồng, tăng 7,8%.
Tính chung 02 tháng đầu năm, tổng mức bán lẻ và doanh thu dịch vụ tiêu dùng ước đạt 16.561 tỷ đồng, tăng 13,4% so với cùng kỳ năm trước; doanh thu hoạt động vận tải kho bãi ước đạt 2.589 tỷ đồng, tăng 18,9%.
4.1. Bán lẻ hàng hoá
Doanh thu bán lẻ hàng hoá tháng 02 ước đạt 6.780 tỷ đồng, tăng 0,5% so với tháng trước và tăng 14,3% so với cùng kỳ năm trước.
Tính chung 02 tháng, doanh thu bán lẻ hàng hoá ước đạt 13.525 tỷ đồng, tăng 12,2% so với cùng kỳ năm trước. Phân theo mặt hàng:
– Nhóm lương thực, thực phẩm đạt 4.893 tỷ đồng, tăng 16,8%;
– Nhóm đồ dùng, dụng cụ trang thiết bị gia đình đạt 1.702 tỷ đồng, tăng 11,4%;
– nhóm gỗ và vật liệu xây dựng đạt 1.641 tỷ đồng, tăng 4,8%;
– Xăng dầu các loại đạt 1.443 tỷ đồng, tăng 9,9%.
4.2. Doanh thu dịch vụ tiêu dùng
Doanh thu dịch vụ tiêu dùng xã hội tháng 02 ước đạt 1.455 tỷ đồng, giảm 8,1% so với tháng trước và tăng 13,6% so với cùng kỳ năm trước.
Doanh thu dịch vụ tiêu dùng xã hội 02 tháng ước đạt 3.037 tỷ đồng, tăng 19,0% so với cùng kỳ năm trước. Phân theo ngành kinh tế:
– Dịch vụ lưu trú đạt 51 tỷ đồng, tăng 27,2% so với cùng kỳ năm trước;
– Dịch vụ ăn uống đạt 1.128 tỷ đồng, tăng 25,3%;
– Dịch vụ lữ hành và hoạt động hỗ trợ du lịch đạt 24,1 tỷ đồng, tăng 43,0%;
– Dịch vụ khác đạt 1.834 tỷ đồng, tăng 15,0%.
4.3. Vận tải
Tháng 02, doanh thu vận tải, kho bãi và hỗ trợ vận tải ước đạt đạt 1.264 tỷ đồng, tăng 7,8% so với cùng kỳ năm trước; trong đó, doanh thu vận tải hành khách tăng 19,0%; doanh thu vận tải hàng hoá tăng 0,4%.
Tính chung 02 tháng đầu năm, doanh thu vận tải, kho bãi và hỗ trợ vận tải ước đạt 2.589 tỷ đồng, tăng 18,9% so với cùng kỳ năm trước; trong đó:
– Doanh thu vận tải hành khách đạt 384 tỷ đồng, tăng 21,2%;
– Doanh thu vận tải hàng hoá đạt 1.537 tỷ đồng, tăng 15,1%;
– Doanh thu kho bãi và dịch vụ hỗ trợ vận tải đạt 639 tỷ đồng, tăng 28,0%;
– Doanh thu dịch vụ bưu chính và chuyển phát đạt 29 tỷ đồng, tăng 13,6%.
4.4. Xuất khẩu, nhập khẩu hàng hoá
Giá trị hàng hóa xuất khẩu tháng 02 ước đạt 529 triệu USD, giảm 21,3% so với tháng 02 năm trước; tính chung 02 tháng đầu năm xuất khẩu ước đạt 1.336 triệu USD, tăng 5,8% so với cùng kỳ năm trước. Dù giá trị hàng hoá xuất khẩu tăng không cao, nhưng đây vẫn là tín hiệu rất tích cực vì hầu hết các tháng năm trước xuất khẩu đều giảm.
Giá trị hàng hoá nhập khẩu tháng 02 ước đạt 462 triệu USD, giảm 16,2% so với tháng 02 năm trước; tính chung 02 tháng đầu năm nhập khẩu ước đạt 1.091 triệu USD tăng 6,7%so với cùng kỳ năm trước.
5. Chỉ số giá
Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 02 tăng 0,05% so với tháng trước; tăng 3,78% so với cùng kỳ năm trước; tăng 0,15% so với tháng 12/2023. Bình quân 02 tháng đầu năm CPI tăng 4,44% so với cùng kỳ năm trước.
So với tháng trước, có 05 nhóm hàng hóa và dịch vụ tăng giá và 05 nhóm giảm giá, riêng nhóm giáo dục giữ giá ổn định. Một số nhóm hàng biến động giá nhiều, tác động lớn vào CPI như sau:
– Nhóm giao thông tăng 2,56%, tác động làm cho CPI chung tăng 0,26 điểm%. Nguyên nhân do giá nhiên liệu xăng dầu tăng 5,70%, tác động làm cho CPI chung tăng 0,24 điểm%. Trong tháng 02, giá xăng điều chỉnh 04 đợt (ngày 01/02; 08/02; 15/02; 22/02) làm cho giá xăng tăng 5,89% so với tháng trước. Hiện nay giá xăng A95 có giá bình quân là 23.719 đồng/lít; xăng E5 có giá bình quân là 22.568 đồng/lít.
– Nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 0,87% tác động làm cho CPI chung tăng 0,27 điểm%. Các nguyên nhân tăng giá là: Giá gạo tăng 1,14%, làm cho CPI chung tăng 0,02 điểm%; giá thịt gia súc tăng 2,50%, làm cho CPI chung tăng 0,17 điểm%; thịt gia cầm tăng 0,49%, làm cho CPI chung tăng 0,01 điểm%; thịt chế biến tăng 1,48%, làm cho CPI chung tăng 0,02 điểm%.
– Nhóm nhà ở, điện nước và chất đốt giảm 2,57%, tác động làm cho CPI chung giảm 0,46 điểm%; trong đó, giảm chủ yếu ở mặt hàng nhà ở giảm 4,40%, tác động làm cho CPI chung giảm 0,54 điểm%.
Giá vàng tháng 02 tăng theo giá vàng thế giới, chỉ số giá vàng tăng 1,75% so tháng trước; tăng 16,86% so với cùng kỳ năm 2023. Bình quân 02 tháng đầu năm giá vàng tăng 16,58% so với cùng kỳ năm trước. Tính đến ngày 23/02/2024, giá vàng bình quân là 6.437 ngàn đồng/chỉ; tăng 111 nghìn đồng/chỉ so với tháng trước. Hiện nay, giá vàng có giá phổ biến ở mức từ 6.430 đến 6.480 nghìn đồng/chỉ.
Chỉ số giá Đô la Mỹ tháng 02 tăng 0,37% so với tháng trước; tăng 3,85% so với cùng kỳ năm trước. Giá bình quân của Đô la Mỹ loại tờ (50 – 100 USD) trong tháng này là 2.463.333 đồng/100USD, tăng 9.102 đồng/100USD so với tháng trước. Hiện nay, giá Đô la Mỹ trên thị trường Hải Dương giao động từ 2.460.000 đến 2.470.000 đồng/100USD.
6. Thu, Chi ngân sách nhà nước
Tổng thu ngân sách nhà nước trên địa bàn tính đến hết ngày 15/02 đạt 4.422 tỷ đồng; nâng tổng thu ngân sách nhà nước từ đầu năm đến 29/02 ước đạt 4.825 tỷ đồng, bằng 24,6% dự toán năm, tăng 14,4% so với cùng kỳ năm trước; trong đó, thu nội địa ước đạt 4.310 tỷ đồng, thu qua Hải quan đạt 508 tỷ đồng.
Tổng chi ngân sách nhà nước tính đến hết ngày 15/02 đạt 2.310 tỷ đồng; nâng tổng chi ngân sách nhà nước ước đến ngày 29/02 đạt 2.761 tỷ đồng, bằng 86,5% so với cùng kỳ; trong đó, chi đầu tư phát triển đạt 392 tỷ đồng, chi thường xuyên đạt 2.366 tỷ đồng.